


Chúa Nhật 16.11.2025
Nghe bài giảng của Đức Cha Andrea Lembo về “Người Cha Nhân Hậu” (Lc 15), con có cảm giác Đức Cha đang kể chính câu chuyện đời con. Và chắc cũng là câu chuyện của nhiều anh chị em Việt Nam con đang sống xa quê ở Nhật này.
Con thấy mình giống người con thứ.
Có những lúc chỉ muốn “tự do”, muốn làm theo ý mình, xa Chúa, xa Giáo Hội, bớt cầu nguyện, lười đi lễ… Con cứ tưởng như vậy là thoải mái hơn. Nhưng rồi đến lúc mệt mỏi, cô đơn, hụt hẫng, nhìn lại thì thấy trong lòng trống rỗng.
Hôm nay, câu “Tôi sẽ đứng lên, trở về với Cha tôi” đụng mạnh vào tim con. Tự nhiên con thấy lòng mình chỉ muốn nói: “Lạy Chúa, con muốn quay về… quay về với Chúa, với Nhà thờ, với cộng đoàn…”
Rồi con cũng thấy mình giống người anh cả nữa.
Vẫn ở “trong nhà Chúa”, vẫn đi lễ, vẫn phục vụ, nhưng trong lòng nhiều khi chật hẹp: so đo, ghen tị, cảm giác mình thiệt thòi, khó vui với thành công hay hạnh phúc của người khác.
Hôm nay, nghe Đức Cha nhắc lại lời người cha: “Tất cả những gì của Cha, đều là của con” tự nhiên con thấy vừa ấm lòng, vừa xấu hổ. Con đúng là đứa con rất đáng thương của Chúa, vậy mà nhiều lúc con quên mất mình đang được ở trong tình thương ấy.
Hình ảnh làm con xúc động nhất chính là người Cha. Không trách, không mắng, không tra hỏi… chỉ chạy ra ôm chầm lấy đứa con.
Con nhận ra: Thiên Chúa mà con tin không phải là ông chủ nghiêm khắc lúc nào cũng cầm sổ ghi lỗi, nhưng là một Người Cha không bao giờ bỏ con, luôn đứng đó chờ con trở về, dù con đã đi xa đến đâu.
Sống ở xứ Phù Tang này, đời sống bận rộn, công việc áp lực, nhiều khi chân con ở Nhật mà lòng con đi lạc đâu mất. Qua bài chia sẻ của Đức Cha, con nghe như có một lời mời rất hiền: “Con ơi, về đi. Về với Cha, về với cộng đoàn, về với chính trái tim của con.”
Con thấy mình được gọi: can đảm quay về, tập vui với niềm vui của người khác, và mỗi ngày một chút, học giống người Cha hơn: dịu dàng hơn, biết tha thứ hơn, biết nói với nhau một lời dễ thương hơn.
Con muốn nói với Đức Cha:
“Con cám ơn Đức Cha nhiều lắm. Nhờ những lời Đức Cha nói hôm nay, con dám đứng lên, dám bước tới tòa giải tội mà lâu nay con cứ ngại. Và trong lòng con chỉ muốn thưa: “Thưa Cha, con đã đắc tội với Trời và với Cha…”



Qua bài giảng trong Thánh Lễ ngày 16 tháng 12 của Đức Cha Andrea Lembo, con có cảm giác như Chúa đang nói với chính con. Nhờ Phúc Âm Thánh Luca 4,16–21, con hiểu hơn: Chúa Giêsu đến để mở mắt người mù, giải thoát người bị trói buộc, chữa lành người đau khổ và cho mọi người được trở về với vẻ đẹp, sự thánh thiện ban đầu của Thiên Chúa. Con tin rằng nơi đâu có Chúa, ở đó có một khởi đầu mới, có ơn chữa lành và hy vọng.
Thánh Phaolô làm chứng: “Hy vọng không làm chúng ta thất vọng”, vì tình yêu Thiên Chúa đã đổ vào lòng chúng ta nhờ Thánh Thần. Câu này chạm mạnh vào tim con. Sống ở Nhật, nhiều khi con quá lo việc học, làm kiếm tiền, ham vui chơi… còn phần linh hồn thì để sang một bên. Từ đó tưởng như Chúa xa con lắm, Chúa không nhìn thấy con. Nhưng hôm nay, con nhận ra: ngay trong hoàn cảnh ấy, Chúa vẫn ở bên con, vẫn nhìn con, hiểu con và đồng hành với con từng ngày.
Qua Thánh lễ với Đức Giám Mục Andrea Lembo dành cho người Việt, con muốn “chọn lại”: chọn đặt niềm hy vọng nơi Chúa, chứ không chỉ nơi tiền của, bằng cấp hay kế hoạch riêng của con. Con muốn trở thành người mang Tin Mừng ngay tại nơi con sống: bằng một nụ cười, sự trung thực trong công việc, sự tử tế với người xung quanh dù họ Nhật hay Việt, và bằng việc cố gắng trung thành hơn với Thánh lễ, cầu nguyện và đời sống cộng đoàn.
Con xin Chúa và Mẹ Maria, Mẹ của niềm hy vọng, luôn dẫn con từng bước, để dù sống nơi đất khách này, con vẫn trung thành với đức tin và luôn xác tín rằng chính Chúa là niềm hy vọng của đời con. Nguyện Xá.
……………………………………
Tâm tình sau khi tham dự Thánh lễ Năm Thánh và kính Các Thánh Tử Đạo Việt Nam tại Nhà thờ Chính tòa Tokyo ngày 16 tháng 11 năm 2025.
Ngày lễ Năm Thánh và kính Các Thánh Tử Đạo Việt Nam tại Nhà thờ Chính tòa Tokyo thật sự là một ngày đầy ơn lành và cảm động đối với cộng đoàn người Việt chúng chúng con. Qua bài giảng của Đức Giám mục Andrea Lembo và bầu khí cầu nguyện hôm đó, nhiều anh chị em đã cảm nhận rất rõ tình thương của Chúa và muốn bắt đầu lại với Ngài.
Chị Maria chia sẻ:
“Khi nghe Đức Giám mục giảng về người Cha nhân hậu, con thấy mình được an ủi nhiều lắm. Ngài nói: khi mình đau khổ, hãy nhớ đến Chúa; Chúa là người Cha luôn nhân lành giàu long thương xót. Dù mình có tội lỗi thế nào, Chúa vẫn tha thứ và mời mình trở về, mời mình đi xưng tội. Con thấy thật hạnh phúc vì trong ngày đó, Hội Thánh ban ơn toàn xá, lại có các cha ngồi tòa giải tội sẵn sàng chờ mình.”
Anh Phaolô thì kể lại một kinh nghiệm rất cụ thể:
“Sau bài giảng của Đức Cha, con cảm thấy như Chúa đang mời con đi xưng tội ngay lập tức. Lần này con chuẩn bị kỹ hơn mọi lần, vì bài giảng của Đức Giám Mục giúp con xét mình và chuẩn bị xưng tội, con thấy mình mở lòng ra trọn vẹn hơn. Con bước ra khỏi tòa giải tội với một sự tự tin mới, như được nhẹ nhàng, bình an, sạch sẽ trong lòng vậy. Không còn gì ngăn cản con đến với Chúa nữa.”
Anh Giuse thì đến nhà thờ trễ một chút:
“Khi con đến nơi, con thấy Đức Giám mục rất gần gũi, thân thiện, nhất là với giới trẻ và với người Việt Nam. Ngài không xa cách mà rất quan tâm, lắng nghe. Sau Thánh lễ, con cảm thấy như lấy lại được lòng tin giữa con với Chúa. Mấy ngày trước đó, con chán nản, có lúc nghĩ ‘chắc không cần Chúa nữa’. Nhưng hôm đó, nhờ bầu khí Thánh lễ, nhờ sự hiện diện của các linh mục quen thuộc, con thấy lòng mình ấm lại, vui hơn, an tâm hơn. Con cảm nhận Giáo hội giống như một gia đình thật sự.”
Anh Mikki thì trải qua một giây phút rất sâu lắng:
“Con xúc động đến rơi nước mắt khi nghe Đức Giám mục giải thích đoạn dụ ngôn người con hoang đàng. Ngài nói: thường thì người ta chỉ chia gia tài khi người cha qua đời. Vậy mà người con thứ đòi chia gia tài khi cha mình còn sống – nghĩa là trong lòng anh ta, ‘người cha đã chết rồi, con không cần cha nữa’. Nói cách khác, anh ta từ chối sự hiện diện của cha mình. Thế nhưng, người cha ấy vẫn thương, vẫn đợi, vẫn mong ngày con trở về. Đức Cha nói, người cha đó là hình ảnh của Thiên Chúa, còn người con thứ chính là hình ảnh lối sống của chúng con. Nghe đến đó, con cảm thấy như Chúa chạm tới tận đáy lòng. Con để cho tâm trí mình ở yên trong sự bình an của Chúa, đến mức từ lúc đó cho đến hết giờ chia sẻ, con… không còn nghe thêm được lời nào nữa. Chỉ im lặng ở trong Chúa mà thôi. Trong lòng con chỉ còn một thôi thúc mạnh mẽ: con phải đi xưng tội, con muốn sạch tội, và không còn gì có thể ngăn cản con đến với Chúa nữa.”
Cô Tuyết tâm sự:
Khi tôi đang nhìn tượng Chúa Giêsu đặt bên cạnh bàn thờ trong nhà thờ chính tòa, tôi chợt nghĩ: “Chúa Giêsu chính là vị tử đạo đầu tiên.” Dĩ nhiên trước đó, trong thời Cựu Ước cũng đã có những người chịu tử đạo nhân danh Thiên Chúa; nhưng Đức Giêsu, Đấng được sai đến như Con Thiên Chúa trong Ba Ngôi, là vị tử đạo đầu tiên của thời Tân Ước… Trước nay tôi chưa bao giờ cảm nhận theo cách ấy, và đây là lần đầu tiên tôi cảm thấy như vậy.
Tôi cũng nhận ra rằng bấy lâu nay mình luôn nhìn “tử đạo” từ quan điểm ích kỷ, chủ quan của riêng mình. Tôi nghĩ rằng cái chết của các vị tử đạo không phải là cái chết mà các ngài có thể tự do lựa chọn, nhưng là điều đã được Thiên Chúa chuẩn bị. Như thế, đó không còn là chuyện “tâm tình hay quyết định của bản thân” nữa, mà là chính lòng xót thương sâu thẳm, không thể kìm nén của Thiên Chúa, khiến con người trong giây phút ấy đón nhận và chọn lấy “con đường đó”.
Đúng như thánh Têrêsa Avila nói, đó là niềm vui tĩnh lặng được ban cho những người – nhờ ơn Chúa – sống trọn vẹn câu “Chỉ một mình Thiên Chúa là đủ”. Trước kia, khi nghĩ đến việc Giáo hội có biết bao nhiêu vị tử đạo như thế, tôi vẫn thắc mắc không hiểu điều đó có nghĩa là gì; nhưng giờ đây tôi nghĩ rằng chính những “vị tử đạo đã được tôn vinh” ấy luôn luôn bảo vệ, dẫn dắt và chuyển cầu cho mọi người, trước hết là cho những người đã tụ họp trong nhà thờ chính tòa hôm ấy.
Tôi cảm nhận rất rõ rằng không chỉ Chúa Giêsu, mà cả các vị tử đạo cũng đang muốn cho chúng ta biết: các ngài vui mừng biết bao khi nhìn thấy những bạn trẻ đó, và các ngài muốn che chở họ đến chừng nào. Tôi nghĩ điều quan trọng là từng người chúng ta ôm chặt trong lòng xác tín rằng ân sủng của Thiên Chúa là đủ cho từng người, và sống từ xác tín ấy.
Tôi cũng cảm nhận rằng chính con người ấm áp và cởi mở của Đức cha Rembo lại càng quy tụ mọi người về với Chúa Giêsu. Thánh Thần đã thổi mạnh mẽ đến nỗi chỉ một lời “tạ ơn” thôi cũng không đủ để diễn tả tất cả.










2025年11月16日、東京カテドラルで行われた聖年ミサとベトナム殉教者ミサに
参列した後の感想。(Fr.山内の日本語訳)
東京カテドラルで執り行われた聖年ミサとベトナム殉教者ミサは、私たちのベトナム人
コミュニティーにとって、真に恵みと感動に満ちた一日となりました。アンドレア・レン
ボ司教様の説教と祈りに満ちたその日の雰囲気を通して、多くの兄弟姉妹が神の愛をはっ
きりと感じ、神と共に新たな人生を歩みたいと願っていました。
マリアさんの感想。「司教様が慈悲深い御父について説教された時、私は深い慰めを感じ
ました。『苦しむ時は神様を思い出しなさい。神は常に優しく慈悲深い父です。どんなに
罪深くても、神はあなたを赦し、立ち返るよう招き、告解へと招いてくださいます。その
日、教会は全免償を与え、告解室には司祭たちが皆さんを待つ準備ができているので、私
はとても幸せでした。』」
パウロさんは、とても具体的な体験を語りました。
「司教様の説教の後、まるで神様がすぐに告解に行くように私を招いているように感じま
した。今回はいつもより念入りに準備しました。司教様の説教は、私を内省し、告解の準
備をする上で助けになったからです。そして、より深く心を開いたように感じました。告
解室を出た時には、新たな自信に満ち溢れ、心が軽やかで、平安に満ち、清らかになった
ように感じました。もう、神に近づくことを止めるものは何もありません。」
ヨセフさんは少し遅れて教会に到着しました。
「到着すると、司教様はとても親しく、特に若者やベトナムの人々と親しく接してくださ
いました。よそよそしい感じではなく、とても思いやりがあり、気配りのある方でした。
ミサの後、神への信頼を取り戻したように感じました。数日前までは落ち込んでいて、『
もう神様は必要ないのかもしれない』と思うこともありました。しかし、その日は、ミサ
の雰囲気と、慣れ親しんだ司祭たちのおかげで、心が温かくなり、幸せで、安心感に包ま
れました。教会が本当の家族のように感じられました。」
ミカエルさんは深い感動を覚えました。「司教様が放蕩息子のたとえ話を説明された時、
私は涙を流しました。司教様はこうおっしゃいました。『普通は、父親が亡くなった時に
遺産を分けるものです。ところが、弟は父親がまだ生きている時に遺産の分割を要求しま
した。心の中では『父親は死んだ。もう父親は必要ない』と言っているのです。つまり、
彼は父親の存在を拒絶したのです。しかし、父親は息子を愛し、息子が戻ってくる日を待
ち続け、切望していました。司教様は、父親は神の似姿であり、弟は私たちの生き方の似
姿だと言われました。それを聞いて、まるで神様が私の心の奥底に触れられたかのようで
した。私は神様の平安に心を委ね、その瞬間から分かち合いが終わるまで、もう何も聞こ
えませんでした。ただ神の中で沈黙していました。私の心には、ただ一つの強い衝動があ
りました。告解に行かなければならない。罪から清められたい。そして、神のもとへ行く
ことを、私を止めるものは何もありません。』」
ベトナム殉教者ミサに参加して:
カテドラルの祭壇脇に在るイエスのご像を見ていた時「イエスが最初の殉教者なんだ」と、今更ながらに思った。
勿論それ迄(旧約の時代)も、神の名の元に殉教した人々は居るが、三位一体の神の子として送られて来たイエスは、新約の時代の最初の殉教者…今迄そういう風に実感したことがなく、初めてそう感じた。
そして「殉教」をいつも自分の勝手な観点から見ていたことにも気づいた。殉教者の死は、本人が自発的に選べる死ではなく、予め神によって用意されているものだと思う。
これは最早「自分の気持ち・決断」などではなく、止むに止まれぬ神の「はらわたする」思いが、その瞬間に「それ」を人に選ばせるのだ…と。アビラのテレジアが言っている通り「神のみにて足る」を生きてしまう(神の恵みによって)人々に与えられる静謐な喜び。あれだけの殉教者を出す…どういうことだろうかと以前は思ったが、その「上げられた殉教者」が、あの日カテドラルに集まっていた人々をはじめ皆を常に守り・導き・取り継ぐのだと思った。
イエスのみならず、殉教者たちが、あの若者たちを見てどれほど喜んでいるか、どれほど守ろうとしているか伝えようとしているのをヒシヒシと感じた。
神の恵みが私たちひとりひとりに十分であることを、ひとりひとりが胸に押し抱いて生きることが大切と思った。
レンボ司教様の暖かく開放的な人柄が、さらに皆をイエスの元に集めている…とも感じた。感謝のひと言では言い表せないくらい、聖霊が吹き荒れていた。
Khi tôi đang nhìn tượng Chúa Giêsu đặt bên cạnh bàn thờ trong nhà thờ chính tòa, tôi chợt nghĩ: “Chúa Giêsu chính là vị tử đạo đầu tiên.” Dĩ nhiên trước đó, trong thời Cựu Ước cũng đã có những người chịu tử đạo nhân danh Thiên Chúa; nhưng Đức Giêsu, Đấng được sai đến như Con Thiên Chúa trong Ba Ngôi, là vị tử đạo đầu tiên của thời Tân Ước… Trước nay tôi chưa bao giờ cảm nhận theo cách ấy, và đây là lần đầu tiên tôi cảm thấy như vậy.
Tôi cũng nhận ra rằng bấy lâu nay mình luôn nhìn “tử đạo” từ quan điểm ích kỷ, chủ quan của riêng mình. Tôi nghĩ rằng cái chết của các vị tử đạo không phải là cái chết mà các ngài có thể tự do lựa chọn, nhưng là điều đã được Thiên Chúa chuẩn bị sẵn. Như thế, đó không còn là chuyện “tâm tình hay quyết định của bản thân” nữa, mà là chính lòng xót thương sâu thẳm, không thể kìm nén của Thiên Chúa, khiến con người trong giây phút ấy đón nhận và chọn lấy “con đường đó”.
Đúng như thánh Têrêsa Avila nói, đó là niềm vui tĩnh lặng được ban cho những người – nhờ ơn Chúa – sống trọn vẹn câu “Chỉ một mình Thiên Chúa là đủ”. Trước kia, khi nghĩ đến việc Giáo hội có biết bao nhiêu vị tử đạo như thế, tôi vẫn thắc mắc không hiểu điều đó có nghĩa là gì; nhưng giờ đây tôi nghĩ rằng chính những “vị tử đạo đã được tôn vinh” ấy luôn luôn bảo vệ, dẫn dắt và chuyển cầu cho mọi người, trước hết là cho những người đã tụ họp trong nhà thờ chính tòa hôm ấy.
Tôi cảm nhận rất rõ rằng không chỉ Chúa Giêsu, mà cả các vị tử đạo cũng đang muốn cho chúng ta biết: các ngài vui mừng biết bao khi nhìn thấy những bạn trẻ đó, và các ngài muốn che chở họ đến chừng nào. Tôi nghĩ điều quan trọng là từng người chúng ta ôm chặt trong lòng xác tín rằng ân sủng của Thiên Chúa là đủ cho từng người, và sống từ xác tín ấy.
Tôi cũng cảm nhận rằng chính con người ấm áp và cởi mở của Đức cha Rembo lại càng quy tụ mọi người về với Chúa Giêsu. Thánh Thần đã thổi mạnh mẽ đến nỗi chỉ một lời “tạ ơn” thôi cũng không đủ để diễn tả tất cả.
