Salesiani Cooperatori

Salesiani Cooperatori

HIỆP HỘI CỘNG TÁC VIÊN SALÊDIÊNG

KẾ HOẠCH
ĐỜI SỐNG TÔNG ĐỒ

Lời giới thiệu

Tặng phẩm quý báu, “sách đời sống” được trao tặng cho chúng ta trong những trang giấy này là kết quả của một tiến trình phân định, học hỏi và cầu nguyện lâu dài mà những người Cộng Tác Viên khắp thế giới đều can dự vào. Họ đảm nhận trách vụ canh tân để có thể đáp lại tốt đẹp hơn nữa, với trái tim của Don Bosco, trước những thách đố mới chuyển đến chúng ta do xã hội toàn cầu hóa và tục hóa này.
Sự trung thành với trực giác nguyên thủy Don Bosco đã có trong mối quan tâm đến chúng ta, trực giác về những người Salêdiêng chân thật được gọi để sống trong thế giới mà không thuộc về nó, chính là cái mô liên kết của Kế Hoạch Đời Sống Tông Đồ này. Chúng ta ghép vào đó lời đáp trả của người đời trước những tiếng gọi của Huấn Quyền Giáo Hội và của Gia đình Salêdiêng.
Điều Lệ này là thẻ căn tính đoàn sủng của chúng ta: nó miêu tả lối thiêng chúng ta, nêu bật sự cam kết tông đồ, và xác định con đường thánh hóa chúng ta, mà, trong sự kết hiệp sâu xa với toàn Gia Đình Salêdiêng chúng ta muốn theo đuổi, làm chứng cho Tình yêu và Hy vọng.
Những quy chế qui tụ lại và miêu tả cách thức sống Kế hoạch Tin Mừng của những Điều Lệ một cách cụ thể, do đó tạo thành “sự thống nhất” hài hòa vốn sẽ giúp chúng ta luôn vững mạnh trong đức tin và được đâm rễ vào dòng văn hóa của đời sống đối nghịch với chủ thuyết tương đối ích kỷ và phổ biến của xã hội chúng ta.
Những người trẻ, các gia đình, những kẻ bị loại xa và những người nghèo, mong đợi, với sự khẩn cấp hằng lớn mãi, câu đáp trả cụ thể mà chỉ có thể đến từ người muốn cộng tác với Thiên Chúa trong việc làm cho Vương quốc đức ái và công bằng của Ngài hiện diện ở đây và lúc này.
Cùng nhau, chúng ta hãy đón chào sự giàu có thiêng liêng mà cuốn Kế Hoạch Đời Sống Tông Đồ mới này mang lại cho chúng ta, và chúng ta hãy làm cho sự cam kết Salêdiêng của chúng ta thành tiếng “xin vâng” chân thành nhất, tin tưởng và nhiệt tâm đối với Thiên Chúa, nơi giới trẻ.
Hội Đồng Thế Giới
Via della Pisana, 1111 – 00163 ROMA (ITALIA)

  • Tel. : (+39)06. 65612636
  • Fax: (+39)06. 65612679
  • E-mail: cooperatori@sdb. org

VĂN PHÒNG TRUNG ƯƠNG DON BOSCO
VIA DELLA PISANA, 1111 – 00163 ROMA
BỀ TRÊN CẢ
Giới Thiệu:
Anh chị em Cộng Tác Viên thân mến,
Với sắc lệnh đề ngày 29 tháng Tư, 2013, Thánh Bộ lo về những Hội của Đời sống thánh hiến và các Hiệp Hội của Đời sống Tông đồ đã xác quyết và phê chuẩn Kế Hoạch Đời Sống Tông Đồ của anh chị em theo một hình thức dứt khoát. Nay, đây chính là bảng danh tính của anh chị em trong Giáo Hội, Gia Đình Salêdiêng và trong Xã Hội.
Bản văn được trao ban cho anh chị em như là “sách sự sống” và phải được đồng hành với anh chị em luôn mãi. Bản văn này chứa đựng Các Điều Lệ và Quy Chế đã được canh tân của Hiệp Hội Cộng Tác Viên Salêdiêng. Do vậy, khi được phê chuẩn, Kế Hoạch Đời Sống Tông Đồ đảm bảo sự trung thành với khởi hứng nguyên thủy của Don Bosco, hòa hợp về mặt thiêng liêng, thần học và mục vụ của Công Đồng Vatican II và Huấn Quyền của Giáo Hội, nối tiếp cuốn Luật Đời Sống Tông Đồ trước đây, và là một lời đáp trả mang tính Salêdiêng và Kitô giáo cho những thách đố mới của thế giới.
Hôm nay, ngày 8 tháng 12, 2013, vào Lễ Trọng kính Mẹ Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội, ngày ghi dấu sự khởi đầu của ơn gọi và sứ mệnh của chúng ta trong thế giới, cha, với tư cách là Bề Trên Cả và kế vị Don Bosco, cha chính thức ban hành bản văn Kế Hoạch Đời Sống Tông Đồ được canh tân này.
Cha mời gọi anh chị em chấp nhận bản văn này với lòng biết ơn và hy vọng của người đã tiếp nhận được một kho tàng thật quý giá.
Từ khi được ban hành, Các Điều Lệ này sẽ có một vị trí ưu tuyển trong đời sống cá nhân của từng Cộng Tác Viên, và trong đời sống của toàn Hiệp Hội. Điều đó có nghĩa rằng chúng ta cần phải hiểu biết nội dung và nội tâm hóa các giá trị của chúng.
Các Điều Lệ miêu tả sự phong phú thiêng liêng của chân tính đoàn sủng của anh chị em; chúng xác định kế hoạch tông đồ của anh chị em; chúng vạch ra con đường thánh hóa anh chị em và mời gọi anh chị em làm chứng cho chúng như là tặng ân quý giá nhất.
Chúng cũng chứa đựng tất cả những gì liên quan đến tổ chức của Hiệp Hội, nhưng chúng không hẳn là tập sách các quy tắc mang tính luật lệ, cũng không là một tiểu luận mang tính giáo thuyết đơn thuần. Các Điều Lệ đề ra diện mạo người Cộng Tác Viên Salêdiêng hoàn toàn phù hợp với ơn gọi và sứ mệnh của họ. Anh chị em là người Salêdiêng chân thật trong thế giới theo trực giác nguyên thủy của Don Bosco; ngài ước muốn người Cộng Tác Viên là một người cộng tác viên đam mê của Thiên Chúa qua những chọn lựa lớn lao đối với sứ mệnh Salêdiêng: gia đình, giới trẻ, giáo dục, Hệ thống Dự phòng, sự cam kết dấn thân vào những môi trường xã hội và chính trị, dành ưu tiên quan tâm và rộng mở cõi lòng đối với người nghèo, kẻ bị loại trừ, ốm đau, và những kẻ bị loại bỏ dưới mọi thứ.
Các Điều Lệ này liên kết mật thiết với Đấng Sáng Lập, là vị muốn thông truyền tinh thần của ngài cho anh chị em. Ta có thể tìm thấy Don Bosco trong những Điều Lệ này. Lòng anh chị em yêu mến ngài được diễn tả bằng việc anh chị em tích cực đảm nhận Dự Phóng Tin Mừng mà ngài đề ra cho anh chị em. Ngài là khuôn mẫu cho anh chị em.
Một phần bổ túc cần thiết cho các Điều Lệ là các Quy Chế do cha phê chuẩn. Qua hình thức thực tiễn và mang tính cách quy định, các Quy Chế diễn dịch những khởi hứng vĩ đại và những chọn lựa cuộc sống theo Tin Mừng của các Điều Lệ. Đó là những áp dụng thực tiễn đến độ việc hiểu biết sống động các Điều Lệ không thể nào trọn vẹn được nếu như ta không học hỏi một cách tương xứng các Quy Chế. Chắc chắn rằng chúng ta đang nói tới hai bản văn có tính cách độc đáo, khác biệt, nhưng điều đó không có nghĩa là phân biệt chúng dựa trên tầm quan trọng, đúng hơn, nó đòi hỏi ta phải hòa nhập cả hai. Trước hết, bản văn các Điều Lệ biểu thị chân tính của anh chị em và bao gồm dự phóng của Đấng Sáng Lập; các quy tắc liên quan đến việc quản trị và sinh động hóa của Hiệp Hội, và đã được giới thẩm quyền của Giáo Hội phê chuẩn; chúng chỉ có thể được thay đổi với sự đồng ý của giới thẩm quyền này; những yếu tố thiêng liêng và pháp lý nhất thiết hòa hợp nhau. Thứ đến, bản văn các Quy Chế chứa đựng những áp dụng cụ thể và những thực hành phổ quát của các Điều Lệ và vì thế cũng có giá trị và phải được thực hành trong toàn Hiệp Hội. Vì một vài quy tắc đã được hình thành khi xét đến những hoàn cảnh lịch sử nhất định, vốn tự chúng là có thể thay đổi, nên tự bản chất, các Quy Chế sẽ có thể được thay đổi một cách dễ dàng hơn.
Cha chuyển giao đến anh chị em Cộng Tác Viên Salêdiêng thân yêu cuốn “sách đời sống” này như một tặng phẩm quý báu nhất, cùng với trách vụ là hiểu biết và nội tâm hóa “cuốn sách sự sống” này. Tập sách này cần phải được học hỏi, thâu hóa, cầu nguyện và sống.
Cha trao cuốn sách này cho anh chị em với trái tim của một người cha, trái tim của Don Bosco và cha phó thác tất cả anh chị em cho Đức Mẹ Phù Hộ Các Giáo Hữu. Xin Mẹ dìu dắt anh chị em và là Mẹ và Bà Giáo của anh chị em.
Cha Pascual Chavez Villanueva
Bề Trên Cả

Roma, ngày 8 tháng Mười Hai, 2013
Lễ Trọng Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội

ĐIỀU LỆ

Dẫn nhập
Nhiều con đường sống đức tin Phép Thánh Tẩy được đề ra cho người Công Giáo. Được Chúa Thánh Thần thúc đẩy và được Don Bosco hấp dẫn, một số người thực thi lý tưởng “cộng tác với Don Bosco” nhưng vẫn sống giữa đời. Với bậc sống giáo sĩ hay giáo dân, họ được mời gọi sống cùng một đoàn sủng như Tu Hội Salêdiêng.
Ngay từ buổi đầu, Don Bosco đã nghĩ đến việc tổ chức các cộng sự viên làm việc cho ngài. Ngài mời gọi các giáo dân nam nữ, và các vị giáo sĩ địa phận cùng cộng tác vào sứ mệnh cứu rỗi giới trẻ, đặc biệt những em nghèo khổ và bị bỏ rơi. Năm 1876, ngài minh nhiên đề ra Dự Phóng đời sống qua bộ “Quy Chế dành cho Cộng Tác Viên Salêdiêng” do chính ngài biên soạn và được Giáo Hội phê chuẩn. Ngày nay, các Cộng Tác Viên Salêdiêng đã lan tỏa và làm việc trên khắp thế giới.
Bản văn hiện hành miêu tả Kế Hoạch Đời Sống Tông Đồ của họ. Bản văn đề xuất một con đường chân thực sống thánh thiện, “thực thi bác ái bằng cách làm việc cứu rỗi các linh hồn”, các Cộng Tác Viên Salêdiêng tín thác vào Thiên Chúa trung thành, là Người Cha đã kêu gọi họ.

Không phải anh em đã chọn Thầy,
nhưng chính Thầy đã chọn anh em,
và cắt cử anh em để anh em ra đi,
sinh được hoa trái,
và hoa trái của anh em tồn tại.
(Ga 15:16)

Chương I
CỘNG TÁC VIÊN SALÊDIÊNG
TRONG GIA ĐÌNH SALDIÊNG
VÀ TRONG THẾ GIỚI
Kh. 1. Đấng Sáng Lập: Người được Thiên Chúa sai đến
Để góp phần vào việc cứu vớt giới trẻ, “thành phần tế nhị và quý giá nhất của xã hội” , qua sự can thiệp từ mẫu của Đức Maria, Chúa Thánh Thần đã khơi lên thánh Gioan Bosco, vị sáng lập Tu Hội Thánh Phanxicô Salê (1859) và, cùng với Thánh Nữ Maria Magiarello, sáng lập Tu Hội Con Đức Mẹ Phù Hộ Các Giáo Hữu (1872). Ngài mở rộng năng lực tông đồ của đoàn sủng Salêdiêng bằng cách chính thức thành lập “Hội Đạo Đức Các Cộng Tác Viên Salêdiêng”, nhánh thứ ba của Gia Đình Salêdiêng (1876), hiệp nhất với Tu Hội Thánh Phanxicô Salê, còn gọi là Tu Hội Salêdiêng của Thánh Gioan Bosco, hay Dòng Salêdiêng.
Chúa Thánh Thần đã hình thành nên cõi lòng người cha và người thầy nơi Thánh Gioan Bosco, một người có khả năng hoàn toàn tận hiến và soi sáng cho ngài một phương pháp giáo dục thấm nhuần đức ái của Vị Mục Tử Nhân Lành.
Kh. 2. Cộng Tác Viên Salêdiêng: một ơn gọi chuyên biệt trong Giáo Hội
§1. Dấn thân làm Cộng Tác Viên Salêdiêng là đáp trả ơn gọi tông đồ Salêdiêng, một tặng phẩm của Thần khí, khi đảm nhận một đường lối chuyên biệt sống Tin Mừng và tham gia vào sứ mệnh của Giáo Hội. Đó là một chọn lựa tự do đem lại sắc thái cho cuộc đời của một người.
§2. Dù xuất thân từ hoàn cảnh văn hóa hay xã hội nào, người Công Giáo đều có thể theo lối đường này. Họ cảm thấy được kêu gọi sống đời sống đức tin của mình hoàn toàn liên hệ với những lo toan hằng ngày. Lối sống này được đặc trưng bởi hai thái độ:
a) nhận biết Thiên Chúa là Cha và là Tình Yêu Cứu Độ; trong Đức Giêsu Kitô, họ gặp gỡ Người Con Duy Nhất của Ngài, vị tông đồ trọn hảo của Chúa Cha; sống mật thiết với Chúa Thánh Thần;
b) cảm thấy được kêu gọi và được sai đi thi hành một sứ mệnh cụ thể, tức là đóng góp vào việc cứu rỗi giới trẻ; dấn thân vào chính sứ mệnh của Don Bosco dành cho giới trẻ và giới bình dân.
Kh. 3. Một ơn gọi duy nhất: hai cách sống ơn gọi
§1. Don Bosco quan niệm Hiệp Hội Cộng Tác Viên Salêdiêng được mở rộng cho cả giáo dân lẫn giáo sĩ triều.
§2. Các Cộng Tác Viên Salêdiêng giáo dân thực thi sự cam kết tông đồ và sống tinh thần Salêdiêng, với những đặc trưng và nhạy cảm của giáo dân trong những hoàn cảnh thông thường của cuộc sống và công ăn việc làm của mình.
§3. Những Cộng Tác Viên Salêdiêng giám mục, linh mục hay phó tế triều sống tác vụ của mình như được khởi hứng từ đức ái mục tử của Don Bosco; đời sống linh mục của họ là một mẫu sống dành chỗ trổi bật để cam kết làm việc vì giới trẻ và trong những nơi chốn mà giới bình dân sống và làm việc.
Kh. 4. Hiệp Hội trong Giáo Hội
§1. Hiệp Hội Cộng Tác Viên Salêdiêng được Tòa Thánh phê chuẩn là một Hiệp Hội công khai của các Tín Hữu và tham dự vào gia sản thiêng liêng của Tu Hội Thánh Phanxicô Salê.
Các thành viên tích cực cộng tác vào sứ mệnh của Tu Hội, nhân danh Giáo Hội, dưới quyền của Bề Trên Cả, Đấng Kế Vị Don Bosco, trong tinh thần trung thành với các vị Chủ Chăn và cộng tác với những lực lượng khác của Giáo Hội.
§2. Các Cộng Tác Viên biểu lộ lòng sùng kính con thảo với Đức Thánh Cha.
§3. Hiệp Hội Cộng Tác Viên Salêdiêng được công nhận như là một thực thể công khai của Giáo Hội theo giáo luật . Hiệp Hội có Văn Phòng Trung Ương tại Roma.
Kh. 5. Hiệp Hội trong Gia Đình Salêdiêng
Hiệp Hội Cộng Tác Viên Salêdiêng là một trong những đoàn thể thuộc Gia Đình Salêdiêng. Cùng với Tu Hội thánh Phanxicô Salê, Dòng Con Đức Mẹ Phù Hộ Các Giáo Hữu và những đoàn thể khác được chính thức công nhận, Cộng Tác Viên Salêdiêng mang lấy cùng một ơn gọi chung Salêdiêng và chia sẻ trách nhiệm về sức sống của dự phóng Don Bosco trong Giáo Hội và trong thế giới.
Hiệp Hội mang lại cho Gia Đình Salêdiêng những giá trị biệt loại đối với bậc sống giữa đời, và tôn trọng danh tính và sự tự lập của mỗi đoàn thể. Cộng Tác Viên Salêdiêng sống mối tương quan hiệp thông đặc biệt với Tu Hội Thánh Phanxicô Salê, mà theo ý của Đấng Sáng Lập, Tu Hội này có một trách nhiệm chuyên biệt trong Gia Đình Salêdiêng.
Kh. 6. Cộng Tác Viên Salêdiêng: Người Salêdiêng ở giữa đời
Cộng Tác Viên Salêdiêng sống đức tin của mình trong thực tại trần thế. Được dự phóng tông đồ của Don Bosco soi dẫn, họ có được một cảm thức hiệp thông mạnh mẽ với các thành phần khác của Gia Đình Salêdiêng. Họ dấn thân cho cùng một sứ mệnh phục vụ giới trẻ và người bình dân theo một cách thực hiệp nhất và huynh đệ. Họ làm việc vì phần ích của Giáo Hội và Xã Hội, theo cách thức được thích ứng với nhu cầu giáo dục của địa dư và khả năng thực tế của họ.

“Chính anh em là muối cho đời. . . .
Chính anh em là ánh sáng cho trần gian. . .
Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ,
để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm,
mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời. ”
(Mt 5:13-16)

Chương II
DẤN THÂN TÔNG ĐỒCỦA CỘNG TÁC VIÊN SALÊDIÊNG
Kh. 7. Chứng tá về Tám Mối Phúc
Đậm nét tinh thần Tám Mối Phúc, lối sống của Cộng Tác Viên Salêdiêng khiến họ cam kết tin mừng hóa nền văn hóa và đời sống xã hội. Vì lẽ đó, được đâm rễ trong Đức Kitô và ý thức rằng mọi người chịu phép Thánh tẩy được kêu gọi tới tình yêu hoàn hảo, Cộng Tác Viên sống và làm chứng về:

  • một đời sống theo Thần khí như nguồn mạnh an vui và tha thứ;
  • sự tự do, trong sự vâng phục kế hoạch của Thiên Chúa, trân trọng giá trị và tính tự lập riêng của những thực tại trần thế, cam kết dấn thân để hướng chúng trên hết đến phục vụ con người.
  • nghèo khó Tin Mừng, quản trị của cải được trao phó cho họ khi sử dụng tiêu chuẩn tiết độ và chia sẻ, nhắm tới thiện ích chung;
  • phái tính, theo cái nhìn của Tin Mừng về đức thanh khiết, đậm nét tế nhị và sống đời hôn nhân hay độc thân cách vui tươi và toàn vẹn trên căn bản tình yêu;
  • sự xót thương mở lòng ta cho mọi thứ đáng thương vật chất và luân lý và thúc đẩy ta làm việc với đức ái mục tử;
  • sự công bình để xây dựng thế giới huynh đệ hơn, một thế giới nhận biết và cổ võ quyền lợi của mọi người, cách riêng của những người cô thế nhất;
  • một ý chí kiên vững xây dựng hòa bình trong một thế giới bị giao động bởi bạo lực và hận thù giai cấp.
    Con đường yêu mến Thiên Chúa và tha nhân này là con đường vững chắc dẫn tới sự thánh thiện.
    Kh. 8. Dấn thân tông đồ
    §1. Các Cộng Tác Viên Salêdiêng thực thi việc tông đồ của mình trước tiên là qua các nhiệm vụ thường ngày. Họ theo Chúa Giêsu Kitô, Con Người trọn hảo, Đấng được Chúa Cha sai đến để phục vụ mọi người trong thế giới. Chính vì thế họ cam kết thực hành lý tưởng của Tin Mừng là yêu thương Thiên Chúa và cận nhân trong những hoàn cảnh thông thường của đời sống.
    §2. Được tinh thần Salêdiêng sinh động, họ lưu tâm đặc biệt đến thanh thiếu niên, đặc biệt là những em nghèo khổ nhất hoặc những em là nạn nhân của mọi hình thức khai trừ, bóc lột và bạo lực; đến những em thuộc thế giới lao động; và đến những ai tỏ lộ có dấu chỉ ơn gọi chuyên biệt.
    §3. Họ cổ võ và bảo vệ giá trị gia đình như là hạt nhân cơ bản của Xã Hội và Giáo Hội và cam kết xây dựng gia đình thành “Giáo Hội tại gia” . Qua hôn nhân, các Cộng Tác Viên có gia đình sống sứ mệnh của mình là “cộng sự viên với tình yêu Thiên Chúa Đấng Tạo Hóa, ”và “là nhà giáo dục đầu tiên và chính yếu của con cái mình, ” theo khoa sư phạm hiền dịu riêng của Hệ Thống Dự Phòng.
    §4. Họ chú tâm tới học thuyết của Giáo Hội về công bằng xã hội và truyền thông xã hội, để cổ võ những hành trình giáo dục tăng trưởng trong những lãnh vực này.
    §5. Họ yểm trợ hoạt động truyền giáo của Giáo Hội và cam kết giáo dục đạt tới một nhãn giới toàn cầu khi khai mở cuộc đối thoại các nền văn hóa.
    Kh. 9. Trách vụ giáo dục Kitô giáo
    §1. Khắp nơi, các Cộng Tác Viên Salêdiêng đảm nhận trách vụ giáo dục và rao giảng Tin Mừng như Don Bosco đã làm, nhằm tạo nên “những công dân lương thiện và Kitô hữu tốt để làm công dân hạnh phúc của Nước Trời mai ngày”, xác tín rằng họ luôn luôn tiến bước trên đường trưởng thành nhân bản và Kitô hữu ngày một hơn.
    §2. Họ chia sẻ với người trẻ nhiệt tâm sống chân chính các giá trị của chân lý, tự do, công bằng và cảm thức về công ích và sự phục vụ.
    §3. Họ giáo dục người trẻ gặp gỡ Đức Kitô Phục Sinh qua đức tin và các bí tích, để nơi Ngài chúng có thể tìm thấy ý nghĩa cuộc đời mình để lớn lên như “con người mới”.
    §4. Họ dấn thân trợ giúp người trẻ phát triển một kế hoạch đời sống, vốn làm chứng cho sự hiện diện Kitô hữu và Salêdiêng của họ trong Giáo Hội và Xã Hội.
    Kh. 10. Khoa Sư Phạm của lòng tốt
    Trong trách vụ giáo dục của mình, các Cộng Tác Viên Salêdiêng:
    §1. Thực thi “Hệ Thống Dự Phòng” của Don Bosco, một kinh nghiệm thiêng liêng và giáo dục được xây trên “lý trí, đạo giáo và lòng thương mến” ;
    §2. cổ võ một môi trường gia đình qua đó liên tục đối thoại, hiện diện sinh động hóa, đồng hành cá nhân và kinh nghiệm đoàn nhóm giúp mọi người nhận biết Thiên Chúa hiện diện;
    §3. cổ võ những gì tốt lành và giáo dục lòng yêu mến sự sống, trách nhiệm, liên đới, chia sẻ, hiệp lực và hiệp thông;
    §4. nại đến những năng lực nội tại của con người và tin vào tác động vô hình của ân sủng, họ nhìn đến từng người trẻ với sự lạc quan thực tế, xác tín vào giá trị giáo dục của kinh nghiệm đức tin. Mối tương quan với người trẻ được soi dẫn bởi một lòng yêu thương chín chắn và chào đón.
    Kh. 11. Các hoạt động tiêu biểu
    Các Cộng Tác Viên mở rộng cho nhiều loại tông đồ. Trong số đó, theo nghề nghiệp và công ăn việc làm của mình, họ dành ưu tiên cho đời sống gia đình, bên cạnh chính công việc và đời sống của họ trong Hiệp Hội :
  • việc dạy giáo lý và giáo dục Kitô hữu;
  • sinh động hóa các đoàn thể và phong trào giới trẻ và gia đình;
  • cộng tác với các cơ sở giáo dục và trường học;
  • công tác xã hội phục vụ người nghèo;
  • hoạt động trong lãnh vực truyền thông;
  • cộng tác vào tác vụ mục vụ ơn gọi;
  • việc truyền giáo;
  • cộng tác vào cuộc đối thoại đại kết và liên tôn;
  • làm chứng cho đức tin khi phục vụ xã hội và chính trị.
  • phát triển Hiệp Hội.
    Kh. 12. Cơ cấu và cách thức Cộng Tác Viên làm việc
    §1. Các Cộng Tác Viên Salêdiêng yểm trợ công cuộc tông đồ của Hiệp Hội trong Giáo Hội và kiện cường nó với sự cam kết của mình và mời gọi những người khác tham gia vào công việc đó.
    §2. Thông thường, các hoạt động của Cộng Tác Viên Salêdiêng diễn ra trong tinh thần cộng tác và cộng sự, trong các cơ cấu ở đó những hoàn cảnh trần thế cống hiến cho họ nhiều khả thể dấn thân có ý nghĩa hơn: dân sự, văn hóa, kinh tế-xã hội, chính trị, Giáo Hội và Salêdiêng.
    §3. Cộng Tác Viên Salêdiêng có thể thực thi dấn thân tông đồ của mình trong những công cuộc được Hiệp Hội điều hành cách độc lập và trong những sáng kiến đáp ứng cho những nhu cầu cấp bách nhất của địa phương.

“Những gì anh em đã học hỏi, đã lãnh nhận, đã nghe,
đã thấy ở nơi tôi, thì hãy đem ra thực hành,
và Thiên Chúa là nguồn bình an sẽ ở với anh em.”
(Pl 4:9)

CHƯƠNG III
TINH THẦN SALÊDIÊNG CỦA CỘNG TÁC VIÊN
Kh. 13. Một gia sản quý giá
Được Chúa Thánh Thần hướng dẫn, Don Bosco sống và chuyển giao lại cho các thành viên trong Gia đình ngài một phong thái sống và hành động độc đáo: tinh thần Salêdiêng.
Tinh thần Salêdiêng là một kinh nghiệm Tin Mừng tinh túy bắt nguồn từ chính cõi lòng của Đức Kitô; Ngài thúc đẩy những ai sống tinh thần ấy trở thành tặng phẩm và sự phục vụ. Tinh thần này được nuôi dưỡng bằng đức ái tông đồ, năng động lực nội tâm chính yếu hiệp nhất đam mê dành cho Thiên Chúa và đam mê dành cho người lân cận. Tinh thần này được bộc lộ trong một lối thiêng bí tích được nên cụ thể bằng cách sống cuộc sống hằng ngày cách vui tươi và lạc quan cũng như trách nhiệm phục vụ cộng đoàn giáo hội và xã hội dân sự. Tinh thần này đòi hỏi một “phương pháp tu đức cao” được tỏa sáng nơi khuôn mặt thanh thản vui tươi phù hợp với lời dạy của Don Bosco: “làm việc và tiết độ.”
Kh. 14. Kinh nghiệm đức tin dấn thân
§1. Cộng Tác Viên Salêdiêng tiếp nhận tinh thần này như là một tặng phẩm Chúa ban cho Giáo Hội và làm tinh thần này trổ sinh hoa trái theo như hoàn cảnh riêng biệt của mình là giáo dân hay giáo sĩ. Mỗi người thông dự vào kinh nghiệm đoàn sủng của Don Bosco, và cam kết cổ võ thuyết nhân bản Salêdiêng để tạo nên những lý lẽ hy vọng và viễn cảnh tương lai cho con người và xã hội.
§2. Bằng cách sống linh đạo Salêdiêng, họ cổ vũ một kinh nghiệm thực tiễn về sự hiệp thông trong Giáo Hội.
§3. Cộng Tác Viên Salêdiêng phó mình cho Đức Trinh Nữ Vô Nhiễm và Phù Hộ Các Giáo Hữu, vì ngài hướng dẫn ơn gọi tông đồ của họ: Là người “cộng tác chân thực với Thiên Chúa”. Họ xin Mẹ Maria, Đấng Phù Hộ Các Giáo Hữu và Mẹ của vị Mục Tử Nhân Lành, ban ơn trợ giúp và sức mạnh cần thiết để cứu độ chính mình và giới trẻ. Hằng ngày phó thác mình cho Đức Maria là nét đặc trưng của lối thiêng Salêdiêng.
Kh. 15. Đức ái tông đồ là trung tâm
§1.Trung tâm tinh thần Salêdiêng là đức ái tông đồ mục tử. Đức ái này làm cho lòng thương xót của Chúa Cha, tình yêu cứu độ của Chúa Kitô và quyền năng của Chúa Thánh Thần hiện diện giữa giới trẻ. Don Bosco đã diễn tả điều này qua châm ngôn: “Xin cho con các linh hồn, còn mọi sự khác xin cất đi.” Ngài biểu thị điều này qua tên gọi “Salêdiêng”, chọn Thánh Phanxicô Salê làm vị quan thày. Thánh Phanxicô Salê là khuôn mẫu cho thuyết nhân bản Kitô hữu, cho lòng tận hiến tông đồ và sự đáng yêu đáng mến, cũng như là người cổ võ lối thiêng giữa đời.
§2. Đối với các Cộng Tác Viên Salêdiêng, đức ái này là hồng ân Chúa ban để kết hiệp họ với Ngài và với giới trẻ. Hơn nữa, đức ái này lấy khởi hứng từ mối quan tâm săn sóc từ mẫu của Đức Maria, Đấng trợ giúp và nâng đỡ họ nên chứng nhân trong đời sống hằng ngày.
Kh. 16. Sự hiện diện Salêdiêng trong thế giới
§1.Các Cộng Tác Viên Salêdiêng cảm thấy mình được “liên kết mật thiết” với thế giới trong đó họ sinh sống và nơi đó họ được mời gọi trở thành ánh sáng và muối men. Họ tin vào năng lực nội tại của con người. Họ chia sẻ các giá trị của nền văn hóa của họ. Họ cam kết làm việc để thế giới được dẫn dắt bởi thuyết nhân bản Kitô hữu. Họ cổ võ những thực tại mới mẻ với cảm thức có phê phán của người Kitô hữu. Họ hòa nhập “tất cả những gì là thiện hảo” vào trong đời sống của mình, bằng một thái độ lắng nghe, đặc biệt đối với giới trẻ, bằng cách phân định những dấu chỉ thời đại.
§2. Đối diện với những thách đố và khó khăn của xã hội và văn hóa, họ đón nhận một thái độ mang tính xây dựng và phê phán. Họ cam kết làm việc để phát huy nền văn hóa và đạo đức Kitô hữu là tình liên đới và chấp nhận lẫn nhau trong xã hội.
Kh. 17. Phong cách hành động
Các Cộng Tác Viên Salêdiêng sống như những “người Công giáo đạo đức và công dân lương thiện”, thánh hóa cuộc đời mình trong đời sống hằng ngày và đâm rễ hoạt động của mình trong sự kết hợp với Thiên Chúa. Họ tin vào giá trị của đời sống, tự do hiến dâng chính mình mà không cần đáp lại, sống tình huynh đệ và là “người thân cận” của mọi người. Họ vun trồng những thái độ vốn cổ võ giáo dục sống vui tươi hằng ngày và họ thông truyền điều này cho những người khác.
Kh. 18. Phong cách tương quan
Các Cộng Tác Viên Salêdiêng thực hành lòng thương mến khởi hứng từ Hệ Thống Dự Phòng của Don Bosco trong những tương quan của họ như dấu chỉ của tình yêu Thiên Chúa và như phương thế làm thức tỉnh lại sự hiện diện của Ngài trong tâm hồn của những người họ gặp gỡ. Họ luôn luôn sẵn sàng đi bước trước và tiếp đón tha nhân với lòng dịu hiền, tôn trọng và nhẫn nại. Họ đề cao mối tương quan tín nhiệm và tình bạn, tạo thành một bầu khí gia đình chân thành và thân thương. Họ hoạt động cho hòa bình và qua đối thoại, họ tìm kiếm sự sáng tỏ và đồng thuận và hòa hợp.
Kh. 19. Phong thái cầu nguyện
§1. Các Cộng Tác Viên Salêdiêng thâm tín rằng không kết hiệp với Chúa Kitô, họ không thể làm gì được . Họ kêu cầu Chúa Thánh Thần soi sáng và kiện cường họ mỗi ngày. Đâm rễ trong Lời Chúa, kinh nguyện của họ mang tính cách đơn sơ tin tưởng, vui tươi và sáng tạo, thấm nhuần lòng nhiệt thành tông đồ, gắn chặt với đời sống và trải rộng trong đời sống. Để nuôi dưỡng đời sống cầu nguyện, các Cộng Tác Viên Salêdiêng sử dụng những trợ lực thiêng liêng mà Giáo Hội, Hiệp Hội và Gia Đình Salêdiêng cống hiến. Họ tích cực tham gia vào phụng vụ, quí trọng những hình thức lòng đạo bình dân vốn làm cho đời sống thiêng liêng của họ được phong phú.
§2. Họ kiện cường đức tin của mình qua các bí tích. Họ tìm được lương thực nuôi dưỡng đức ái tông đồ của họ trong Phép Thánh Thể. Nơi bí tích Giao hòa, họ gặp được lòng thương xót của Chúa Cha, Đấng ban cho đời sống họ được liên tục hoán cải cách mạnh mẽ và giúp họ phát triển khả năng tha thứ.
§3. Họ kiện cường đời sống nội tâm và tông đồ của mình qua những thời điểm thiêng liêng mà Hiệp Hội hoạch định.
Kh. 20. Hiệp thông với Đức Maria và các Thánh của chúng ta
§1. Như Don Bosco, các Cộng Tác Viên Salêdiêng nuôi dưỡng một lòng yêu mến con thảo đối với Đức Maria Phù Hộ các Giáo Hữu, Mẹ Giáo Hội và Mẹ nhân loại . Mẹ đã cộng tác vào sứ mệnh cứu rỗi của Đấng Cứu Thế và ngày nay, Mẹ vẫn còn tiếp tục làm Mẹ và Đấng Phù Hộ cho Dân Chúa. Ngài là vị hướng đạo đặc biệt của Gia Đình Salêdiêng. Don Bosco phó thác các Cộng Tác Viên Salêdiêng cho Mẹ ngõ hầu họ có thể được Mẹ che chở và soi dẫn trong sứ mệnh của mình.
§2. Với một lòng cảm mến đặc biệt, họ chạy đến Thánh Giuse, Đấng Bảo Trợ của Giáo Hội Phổ Quát. Họ tín thác xin sự chuyển cầu của Thánh Gioan Bosco, “Cha và Thầy” của giới trẻ và của mọi người trong Gia Đình Salêdiêng.
§3.Trong số các mẫu mực của đời sống tông đồ, họ đặc biệt tôn kính Thánh Phanxicô Salê, Thánh Maria Domenica Magiarello, Chân phước Alexandrina Maria da Costa, Mẹ Maguarita và các Thánh, các Chân Phước, các Đấng Đáng Kính khác của Gia Đình Salêdiêng. Hiểu biết về đời sống của các ngài là nguồn khởi hứng và cầu nguyện.

“Vậy, tôi là người đang bị tù vì Chúa,
tôi khuyên nhủ anh em hãy sống cho xứng với ơn kêu gọi
mà Thiên Chúa đã ban cho anh em.
Anh em hãy ăn ở thật khiêm tốn,
hiền từ và nhẫn nại ; hãy lấy tình bác ái mà chịu đựng lẫn nhau. Anh em hãy thiết tha duy trì sự hiệp nhất mà Thần Khí đem lại, bằng cách ăn ở thuận hoà gắn bó với nhau.
(Ep 4:1-3)

Chương IV
CỘNG TÁC VIÊN SALÊDIÊNG
HIỆP THÔNG VÀ CỘNG TÁC
Kh. 21. Anh chị em trong Don Bosco
Cùng chung ơn gọi và thuộc về cùng một Hiệp Hội làm cho các Cộng Tác Viên Salêdiêng trở thành anh chị em thiêng liêng của nhau. Thực vậy, “hiệp nên một lòng một trí” , họ sống sự hiệp thông huynh đệ theo những mối liên kết đặc trưng của tinh thần Don Bosco.
Họ hân hoan tham dự vào “đời sống gia đình” của Hiệp Hội bằng cách nhận biết nhau, cùng nhau lớn lên, trao đổi những kinh nghiệm đức tin và làm việc theo các kế hoạch tông đồ.
Họ cổ võ đời sống của hiệp hội bằng cách niềm nở đón nhận nhau.
Kh. 22. Đồng trách nhiệm về sứ mệnh
§1. Cộng Tác Viên Salêdiêng cảm thấy có trách nhiệm về sứ mệnh chung và thực thi sứ mệnh ấy theo trạng huống của mình trong đời sống, theo những năng lực và khả thể của mình, dành cho sứ mệnh ấy sự hỗ trợ giá trị và cốt yếu. Trong Hiệp Hội, mỗi người đồng chia sẻ trách nhiệm giáo dục và phúc âm hóa. Mỗi người phải tham dự các phiên họp để lên kế hoạch và lượng giá các hoạt động khác nhau, và khi chọn những người chịu trách nhiệm hoàn thành các những trách nhiệm chuyên biệt.
Nếu được mời gọi đảm nhận vị trí có trách nhiệm, họ cam kết thực thi trách vụ được trao phó cách trung thành và trong tinh thần phục vụ.
§2. Mỗi Cộng Tác Viên Salêdiêng nâng đỡ sự độc lập tài chánh của Hiệp Hội một cách trách nhiệm và với một cảm thức thuộc về, ngõ hầu Hiệp Hội có thể thực thi được sứ mệnh của mình.
Kh. 23. Tham dự và những dây liên kết với các nhóm thuộc Gia Đình Salêdiêng
§1. Trung thành với nhãn quan của Don Bosco là “các lực lượng yếu kém, khi hiệp nhất, sẽ nên mạnh, và nếu từng sợi dây riêng rẽ dễ bị dựt đứt, thì ba sợi kết lại sẽ khó dựt đứt hơn” , Cộng Tác Viên Salêdiêng chăm lo đến sự hiệp thông và cộng tác với các Nhóm khác thuộc Gia Đình Salêdiêng. Họ làm thế nhờ hiểu biết lẫn nhau và thông tin cho nhau, trợ giúp nhau về thiêng liêng và đào luyện, cũng như dấn thân vào những trách vụ tông đồ chung, với sự kính trọng căn tính và tự lập của mỗi Nhóm.
§2. Sự tham gia vào Ủy ban tham vấn của Gia Đình Salêdiêng ở các cấp khác nhau và mối liên hệ với những tổ chức mục vụ của Giáo Hội và các cơ cấu dân sự cổ võ việc cùng nhau tìm tòi các sáng kiến mới. Sứ mệnh Salêdiêng cổ võ và làm chứng cho gia sản phong phú về thiêng liêng và tông đồ mà Gia Đình này nhận được.
§3. Cộng Tác Viên Salêdiêng cảm thấy gần gũi với tất cả các Nhóm thuộc về Gia đình Salêdiêng bởi họ đều thừa kế đoàn sủng và tinh thần Salêdiêng.
Họ rộng mở và cổ võ mọi hình thức cộng tác, cách riêng với các nhóm giáo dân, kính trọng căn tính và sự tự lập của mỗi nhóm.
Kh. 24. Tác Vụ của Bề Trên Cả
§1. Bề Trên Cả của Tu Hội Thánh Phanxicô Salê là người kế vị Don Bosco. Qua ý muốn rõ rệt của Đấng Sáng Lập, ngài là Bề Trên của Hiệp Hội và thực thi chức năng Điều Phối Viên Tối Cao trong Hiệp Hội. Ngài bảo đảm Hiệp Hội trung thành với dự phóng của Đấng Sáng Lập và cổ võ Hiệp Hội tăng trưởng.
§2. Trong tác vụ của ngài, cũng được thực thi qua vị Phó Bề Trên Cả hay vị Điều Phối cấp thế giới của mình, ngài thông thường tận dụng Hội Đồng Thế Giới và Thư ký Thường Vụ Thế Giới (SEM), trên hết, để sinh động hóa toàn Hiệp Hội và phối hợp những sáng kiến đào luyện và tông đồ khác nhau.
§3. Các hội viên của Hiệp Hội nuôi dưỡng lòng cảm mến chân thành với Bề Trên Cả và trung thành với những hướng dẫn của ngài.
Kh. 25. Những mối liên kết đặc biệt với Tu Hội Thánh Phanxicô Salê và Tu Hội Con Đức Mẹ Phù Hộ Các Giáo Hữu
Hiệp Hội Cộng tác Viên Salêdiêng có “một mối tương quan hiệp nhất vững bền và đảm bảo” với Tu Hội Thánh Phanxicô Salê và những mối liên hệ đặc biệt mang tính đoàn sủng với Tu Hội Con Đức Mẹ Phù Hộ Các Giáo Hữu.
Như Don Bosco muốn, mọi cộng thể Salêdiêng (SDB và FMA), cấp tỉnh và địa phương, cảm thấy mình can dự vào trách vụ “nâng đỡ và làm phát triển” Hiệp Hội, góp phần đào luyện các thành viên của Hiệp Hội, quảng bá Hiệp Hội và cổ võ Kế Hoạch Đời Sống Tông Đồ của Hiệp Hội.
Kh. 26. Sự phục vụ tông đồ của những Uỷ Viên
§1. Trong Hiệp Hội, những Uỷ Viên, ở bất kỳ cấp nào, có quyền tham gia và có tiếng nói tích cực trên Hội Đồng liên hệ, đảm bảo “mối dây hiệp nhất bền vững và bền chặt” với tinh thần Salêdiêng, và chia sẻ kinh nghiệm đoàn sủng và thiêng liêng của Đấng Sáng Lập.
Trong sự trung thành sáng tạo đối với Don Bosco, họ cam kết cống hiến sự góp phần chuyên biệt của mình, ngay cả qua việc tham gia vào những trách vụ làm những quyết định có tính tập thể của Hiệp Hội.
§2. Họ thúc đẩy các Hội Đồng trong những trách nhiệm của họ và ủng hộ sự tự lập về tổ chức trong sự hiệp thông mang tính đoàn sủng với Tu Hội Thánh Phanxicô Salê và với dòng Con Đức Mẹ Phù Hộ Các Giáo Hữu.
§3. Họ cống hiến sự phục vụ của vị linh hướng, giáo dục và mục vụ để hỗ trợ cho việc tông đồ của Cộng Tác Viên Salêdiêng được hiệu quả hơn trong lãnh vực của họ.

Xin Chúa cho tình thương của anh em đối với nhau
và đối với mọi người ngày càng thêm đậm đà thắm thiết, cũng như tình thương của chúng tôi đối với anh em vậy.
Như thế, Chúa sẽ cho anh em được bền tâm vững chí,
được trở nên thánh thiện, không có gì đáng chê trách,
trước nhan Thiên Chúa là Cha chúng ta.
(1 Tx 3:12-13)

Chương V
TƯ CÁCH THÀNH VIÊN VÀ VIỆC ĐÀO LUYỆN
CỦA CỘNG TÁC VIÊN SALÊDIÊNG
Kh. 27. Gia nhập Hiệp Hội
§1. Việc dấn thân trở thành một Cộng Tác Viên Salêdiêng đòi hỏi cá nhân phải chọn lựa tự do, tiệm tiến, có động lực và trưởng thành, theo sự thôi thúc của Chúa Thánh Thần và được những người có trách nhiệm đào luyện đồng hành.
Người muốn gia nhập Hiệp Hội, chấp nhận một tiến trình đào luyện vốn phải bao hàm những điểm cơ bản của Kế Hoạch Đời Sống Tông Đồ và để ý đến kinh nghiệm cá nhân của người muốn gia nhập. Bằng cách này, một sự đào luyện thích hợp theo thể chế được đảm bảo đang khi vẫn được cá vị hóa. Kế hoạch đào luyện cá nhân này sẽ được thích ứng do những người chịu trách nhiệm thực thi vai trò này trong Hiệp Hội.
§2. Khi ứng sinh đã đạt đến mức thấm nhuần đầy đủ đoàn sủng Salêdiêng, như được những người trách nhiệm trong Trung tâm địa phương chứng nhận, họ đệ trình thỉnh nguyện được tiếp nhận. Ứng sinh phải đạt đến tuổi theo luật định.
§3. Cá nhân khởi sự thuộc về Hiệp Hội qua việc tuyên hứa. Qua đó ứng sinh diễn tả ý muốn sống những cam kết của phép Thánh Tẩy của mình theo ánh sáng của Kế Hoạch Đời Sống Tông Đồ.
Kh. 28. Giá trị của tư cách thành viên
§1. Các Cộng Tác Viên ý thức rằng việc thuộc về Hiệp Hội nuôi dưỡng kinh nghiệm đức tin của họ và kinh nghiệm về sự hiệp thông của Giáo Hội. Hơn nữa, nó cũng biểu thị một yếu tố sinh tử trong việc nâng đỡ ơn gọi tông đồ của bản thân họ.
§2. Tư cách thành viên đòi hỏi những dấu chỉ cụ thể vốn được diễn tả trong sự tham gia tích cực vào đời sống của Hiệp Hội và trong một thái độ thích hợp về phía người hội viên trong đời sống hằng ngày và nghề nghiệp của họ.
KH. 29. Trách nhiệm và sáng kiến đào luyện
§1. Cộng Tác Viên Salêdiêng là những người đầu tiên chịu trách nhiệm về việc đào luyện nhân bản, Kitô hữu, Salêdiêng và nghề nghiệp của mình.
§2. Hiệp Hội cổ võ và nâng đỡ việc đào luyện cá nhân và nhóm qua các Cộng Tác Viên Salêdiêng có khả năng, các Uỷ Viên và các thành viên khác của Gia Đình Salêdiêng.
Kh. 30. Trung thành với những cam kết đã đảm nhận
§1. Với lời đoan hứa tông đồ, Cộng Tác Viên Salêdiêng đáp lại một ơn gọi kéo dài suốt đời. Họ diễn tả nó trong đời sống hằng ngày qua chứng tá, việc tông đồ, và những hình thức phục vụ khác nhau. Họ đặt mình sẵn sàng phục vụ sứ mệnh của Giáo Hội, sống đoàn sủng Salêdiêng cách chân chính. Họ cam kết cộng tác vào những sáng kiến vốn được các cơ quan tổ chức thuộc Giáo Hội, dòng tu hay dân sự cổ võ. Sự trung thành của mỗi người được nâng đỡ bởi tình mến và tình liên đới của những thành viên khác trong Hiệp Hội và trong Gia đình Salêdiêng.
§2. Để kiện cường giá trị của việc thuộc về Hiệp Hội và qua đó, thuộc về Gia Đình Salêdiêng như một toàn thể -những cam kết mà những thành viên đảm nhận cùng với việc Tuyên Hứa sống đời tông đồ được canh tân theo những cách thức xứng hợp nhất mà Quy Chế thiết định.
Kh. 31. Rời bỏ Hiệp Hội
§1. Qua sự chọn lựa tự do của bản thân, Cộng Tác Viên Salêdiêng có ý định không còn tiếp tục thuộc về Hiệp Hội, sẽ thông tri điều này cho Hội Đồng Trung Tâm bằng một văn bản xác nhận quyết định của mình. Hội Đồng Trung Tâm sẽ gửi một phó bản của bản viết này cho Hội Đồng Tỉnh.
§2. Quyết định của Hiệp Hội khai trừ một thành viên nào vì những lý do nghiêm trọng phải được thực hiện do Hội Đồng Tỉnh theo yêu cầu chính đáng của Hội Đồng Trung Tâm. Việc này phải được thực hiện trong tinh thần bác ái và minh bạch sau khi xét định một lối sống không nhất quán với những bổn phận căn bản được diễn tả trong Kế Hoạch Đời Sống Tông Đồ. Quyết định này phải được thông tri bằng văn bản cho đương sự.
Kh. 32. Ý nghĩa và Văn thức của Lời Tuyên hứa sống đời tông đồ
§1. Ý nghĩa và mục đích của lời tuyên hứa là diễn tả người ứng sinh muốn sống phép Thánh Tẩy của mình theo Kế Hoạch Đời Sống Tông Đồ. Chính Don Bosco đã đề xuất lời tuyên hứa này như là lời diễn tả ơn gọi tông đồ Salêdiêng của họ trong xã hội.
§2. Lời tuyên hứa
“Lạy Chúa Cha, con thờ lạy Cha, vì Cha thật tốt lành yêu thương mọi người. Con cảm tạ Cha vì đã tạo dựng và cứu chuộc con, và đã kêu gọi con vào Hội Thánh Cha và trong Giáo Hội ấy lại còn cho con biết đến Gia Đình Tông Đồ của Don Bosco, một Gia đình sống vì Cha trong việc phục vụ giới trẻ và giới bình dân. Được Tình yêu xót thương của Cha lôi kéo, con muốn đáp lại tình yêu bằng việc thực thi những gì tốt lành.
Vì thế,
CON TUYÊN HỨA
Cam kết (như một linh mục) sống Kế Hoạch Đời sống Tông đồ của Hiệp Hội Cộng Tác Viên Salêdiêng, nghĩa là:

  • trở thành một môn đệ trung thành của Chúa Kitô trong Giáo Hội Công Giáo;
  • hoạt động trong Nước Cha, đặc biệt để thăng tiến và cứu rỗi giới trẻ;
  • đào sâu và làm chứng cho tinh thần Salêdiêng;
  • hiệp thông với Gia Đình Salêdiêng, cộng tác vào những sáng kiến tông đồ của Giáo Hội địa phương.
    Lạy Cha, xin ban cho con sức mạnh của Thánh Thần Cha, để con biết cách là chứng nhân trung thành cho những cam kết này. Xin Mẹ Maria Phù Hộ Các Giáo Hữu, Mẹ Giáo Hội, trợ giúp và hướng dẫn con trong sự chọn lựa đời sống này. Amen.”

Ơn riêng Thiên Chúa đã ban,
mỗi người trong anh em phải dùng mà phục vụ kẻ khác.
Như vậy, anh em mới là những người khéo quản lý ân huệ thiên hình vạn trạng của Thiên Chúa.
(1 Pr 4:10)

Chương VI
TỔ CHỨC HIỆP HỘI
Kh. 33. Lý do của tổ chức này
Được kêu mời sống ơn gọi của mình trong xã hội và Giáo Hội, những Cộng Tác Viên Salêdiêng có một cơ cấu tổ chức thích hợp. Theo Kế Hoạch Đời sống Tông đồ này, Hiệp Hội mà họ gia nhập là phương thế giúp họ sống sứ mệnh và sự hiệp thông.
Kh. 34. Tổ chức uyển chuyển
Trung thành với ý muốn của Đấng Sáng Lập, Hiệp Hội có một cơ cấu hoạt động uyển chuyển dựa trên ba cấp: địa phương, tỉnh và thế giới.
Qua cơ cấu tổ chức này, Hiệp Hội nhằm đề cao tính hữu hiệu hoạt động của mình trong một địa phương và mở rộng cho sự hiệp thông và sứ mệnh phổ quát.
Kh. 35. Cai quản và sinh động hóa cấp địa phương, tỉnh và thế giới
Việc cai quản và sinh động hóa Hiệp Hội thuộc thẩm quyền Bề Trên Cả, thông thường được đại diện bởi Phó Bề Trên Cả hay vị được Ngài ủy nhiệm. Việc này được trao cho Hội Đồng địa phương, tỉnh và thế giới; Hội Đồng này cũng bao gồm sự hiện diện của những thành viên tu sĩ được Giám Tỉnh SDB và FMA liên hệ bổ nhiệm cho những Hội Đồng địa phương và tỉnh, và Bề Trên Cả cho Hội Đồng thế giới. Đại diện pháp nhân của Hiệp Hội được ủy thác cho Điều Phối Viên của Hội Đồng tương ứng.
Kh. 36. Cấp địa phương
§1. Hạt nhân cơ bản của Hiệp Hội là Trung Tâm Địa Phương. Thông thường Trung Tâm quy tụ những Cộng Tác Viên Salêdiêng làm việc trong một địa phương nhất định. Mọi Trung tâm có một Uỷ Viên được Giám tỉnh liên hệ chỉ định. Trung Tâm ấy nên được thiết lập gần một công cuộc Salêdiêng – hoặc của Salêdiêng Don Bosco hay Con Đức Mẹ Phù Hộ Các Giáo hữu.
§2. Các Trung Tâm Địa Phương được điều hành tập thể bởi một Hội Đồng Trung Tâm. Hội Đồng được bầu lên bởi tất cả thành viên làm nên hội nghị của trung tâm địa phương. Từ các thành viên của mình, Hội Đồng ấy chọn ra một Điều Phối Viên Trung Tâm và xác định những vai trò chuyên biệt của các thành viên, Uỷ viên là thành phần của Hội Đồng và có một tiếng nói tích cực.
§3. Những người thiện chí, dù thuộc giáo phái Kitô hữu khác hay thuộc một tôn giáo và văn hóa khác, cảm thấy hấp dẫn với đoàn sủng Salêdiêng, có thể tham dự vào những sáng kiến của Trung Tâm Địa Phương và góp phần cộng tác của họ trong tư cách là “bạn hữu của Don Bosco. ”
Kh. 37. Cấp Tỉnh
§1. Các Trung Tâm Địa Phương được tổ chức thành Tỉnh, được cha Bề Trên Cả thiết lập dựa trên đề xuất của Hội Đồng Thế Giới.
§2. Căn cứ vào “mối dây hiệp nhất”và những liên kết đoàn sủng giữa Hiệp Hội Cộng Tác Viên Salêdiêng và các Salêdiêng Don Bosco và Con Đức Mẹ Phù Hộ Các Giáo Hữu, các Tỉnh Hội của Hiệp Hội liên hệ với các Tỉnh Dòng SDB hay FMA tương ứng.
§3. Mỗi Tỉnh có một Hội Đồng Tỉnh được bầu bởi các Hội Đồng Trung Tâm in sede ở Hội Nghị Tỉnh theo như thể lệ được đề ra trong Quy Chế của Hội Nghị ấy.
§4. Hội Đồng Tỉnh được tổ chức theo tính tập thể, bầu một Điều Phối Viên Tỉnh từ những thành viên của Hội Đồng ấy. Chính Hội Đồng xác định những trách vụ chuyên biệt của từng thành viên. Mọi Hội Đồng Tỉnh có một Uỷ Viên SDB hay FMA giữa những vị thành viên. Những Uỷ Viên này có một tiếng nói tích cực và được các Giám tỉnh SDB và FMA tương ứng bổ nhiệm.
§5. Để sinh động hóa Hiệp Hội, các Tỉnh, tôn trọng sự tự lập về cai quản, được tổ chức thành các miền, dựa trên ngôn ngữ, văn hóa hay lãnh thổ, qua quyết định của Bề Trên Cả với sự đồng thuận của Hội Đồng Thế Giới. Các Giám tỉnh SDB và FMA liên hệ, với sự thỏa thuận chung, bổ nhiệm một Uỷ Viên SDB và một Uỷ Viên FMA cho Miền.
Kh. 38. Cấp thế giới
§1.Hội Đồng Thế Giới bao gồm:

  • Điều Phối Viên thế giới, được Bề Trên Cả trực tiếp bổ nhiệm;
  • Uỷ Viên SDB Thế Giới được cha Bề trên Cả bổ nhiệm và Uỷ Viên FMA Thế Giới được cha Bề Trên Cả bổ nhiệm dựa theo đề xuất của Mẹ Tổng Quyền FMA.
  • Các Hội Nghị miền liên hệ bầu chọn những Cố vấn thế giới;
  • chính các Cố Vấn Thế Giớibầu chọn qua phiếu kínVị Thủ Quỹ Thế Giới và Thư Ký Thế Giới.
    §2. Văn Phòng Thường Vụ Thế Giới (SEM) bao gồm Điều Phối Viên thế giới, Vị Thủ Quỹ thế giới, vị Thư Ký thế giới, Uỷ Viên SDB thế giới, và Uỷ Viên FMA thế giới.
    Văn phòng thường vụ thế giới có chức năng đảm bảo những hoạt động quản trị thông thường mà không cần thiết triệu tập Hội Đồng thế giới. Trong Hội Đồng thế giới, văn phòng ấy đảm nhận trách vụ của “Hội đồng về những chuyện Kinh tế” trong Hiệp Hội theo điều khoản của Giáo luật 1280.
    §3. Các thành viên của Hội Đồng thế giới giữ nhiệm kỳ trong sáu năm.
    §4. Những hướng dẫn của Hội Đồng thế giới có được hiệu lực sau khi được Bề Trên Cả phê chuẩn.
    Kh. 39. Việc quản trị tài sản của Hiệp Hội
    §1. Trong tư cách là một pháp nhân công khai thuộc Giáo Hội, Hiệp Hội Cộng Tác Viên Salêdiêng có thể mua tậu, sở hữu, quản trị và di nhượng tài sản vật chất theo luật lệ. Tài sản mà chính Hiệp Hội sở hữu là tài sản của Giáo Hội.
    §2. Cha Bề Trên Cả cùng với Hội Đồng Thế Giới quản trị tài sản của Hiệp Hội cấp thế giới và là giới thẩm quyền để cho phép các Hội đồng địa phương và tỉnh thực hiện những hành vi quản trị và di nhượng thông thường không đòi hỏi có sự can thiệp của Tòa Thánh.
    §3. Qua vị Thủ Quỹ được chọn từ trong Hội Đồng, các Hội Đồng chăm lo việc quản trị tài sản của Hiệp Hội. Vị Thủ Quỹ cũng chuẩn bị “bản xác minh tài chánh” để trình bày hằng năm cho Hội Đồng ở cấp cao hơn.
    Kh. 40. Những quy định cuối
    §1. Hiệp Hội Cộng Tác Viên Salêdiêng được tạo nên bởi các Điều Lệ hiện hành. Những quy tắc khác được chứa đựng trong Quy Chế cấp thế giới hay trong Cẩm Nang thuộc các cấp khác nhau.
    Điều Lệ định rõ ơn gọi của Cộng Tác Viên Salêdiêng: căn tính, tinh thần, sứ mệnh, sự hiệp thông và các nguyên tắc về cơ cấu tổ chức của Hiệp Hội.
    Các Quy Chế chứa đựng những điểm thực hành xác định và quy định hoạt động, phương pháp luận, cơ cấu và tổ chức. Các Quy Chế giúp cho những nguyên tắc của các Điều Lệ – mà các quy chế phải tuân theo – nên thực tiễn để chúng được sống một cách cụ thể.
    Cẩm nang (trước kia gọi là Nội Quy) nêu lên những quy định đặc thù của Hiệp Hội nhằm thích ứng Kế Hoạch Đời sống Tông Đồ vào việc vận hành cụ thể trong các lãnh thổ khác nhau. Chúng được các Hội Đồng tương ứng phê chuẩn và được Hội Đồng vấp vao hơn trong khu vực trực tiếp chứng thực; Hội Đồng đó phải bảo đảm các Nội Quy phù hợp với những gì mà Điều Lệ và Quy Chế đề ra.
    §2. Các Điều Lệ hiện hành có thể được thay đổi dựa trên đề xuất của Điều Phối Viên Tối Cao, Hội Đồng Thế Giới hay các Hội Đồng Tỉnh. Các đề xuất thay đổi phải bao gồm một bản trình bày rõ ràng và chi tiết những lý do biện minh cho sự thay đổi, phải xác định những mục tiêu cụ thể kéo theo đó, và những nguyên tắc nó diễn tả. Bề Trên của Hiệp Hội phải lượng giá và chấp nhận sự thay đổi được đề nghị.
    Tiến trình thay đổi sẽ được xác định bởi Hội Đồng Thế Giới với sự đồng thuận Cha Bề Trên Cả.
    Sau đó, việc thay đổi phải được phê chuẩn bởi đa số tuyệt đối của những ai tham dự vào Hội Nghị Thế Giới, bởi Bề Trên của Hiệp Hội, và bởi Tòa Thánh.

Kết Luận
Kh. 41. Một con đường nên thánh
Cộng Tác Viên Salêdiêng chọn tham dự vào con đường Tin mừng mà Kế Hoạch Đời Sống Tông Đồ hiện hành đã vạch ra.
Họ cam kết một cách trách nhiệm vào con đường này vốn đưa họ tới sự thánh thiện: Hiệp Hội Cộng Tác Viên “được đề ra để lay tỉnh nhiều Kitô hữu khỏi tình trạng yếu nhược họ sống và trải rộng năng lực của đức ái” .
Nhờ ơn sủng dồi dào, Chúa đồng hành với tất cả những ai hoạt động trong tinh thần “da mihi animas”, làm điều tốt lành cho giới trẻ và giới bình dân .

QUY CHẾ

DẪN NHẬP
Những Quy Chế hiện hành hoàn bị Kế Hoạch Đời Sống Tông Đồ như được vạch ra trong Điều Lệ của Hiệp Hội. Chúng đề ra những đường hướng và quy tắc nhằm thực hành những nguyên tắc được Điều Lệ diễn tả.

Chương I
DẤN THÂN TÔNG ĐỒ
CỦA CỘNG TÁC VIÊN SALÊDIÊNG
Kh. 1. Cộng Tác Viên Salêdiêng trong Giáo Hội
§1. Các Cộng Tác Viên Salêdiêng hòa nhập chính mình vào giáo xứ và địa phận với sự sẵn sàng và với một thái độ phục vụ theo phong thái Salêdiêng. Được Giáo Hội mời gọi thi hành một tác vụ, họ thực thi tác vụ ấy như một phương thế hỗ trợ và phát triển mục vụ của Giáo Hội.
Họ sống ơn gọi của phép Thánh Tẩy bằng cách đảm nhận Hệ Thống Dự Phòng của Don Bosco như hình thái chuyên biệt để diễn đạt tình yêu Thiên Chúa, khi chăm sóc cách riêng đến giới trẻ và các gia đình.
§2. Cộng Tác Viên Salêdiêng cổ võ tiếp nhận và gắn bó với Huấn Quyền của Giáo Hội. Mối tương quan của họ với các cha xứ, linh mục, tu sĩ và giáo dân khác đậm nét kính trọng, liên đới và tích cực tham dự vào các kế hoạch mục vụ, cách riêng những kế hoạch tập trung vào giới trẻ, gia đình và ơn gọi.
Kh. 2. Cộng Tác Viên Salêdiêng trong thực tại xã hội-văn hóa
§1. Trong mọi nẻo đường cuộc sống, Cộng Tác Viên Salêdiêng làm cho mối quan tâm giáo dục trong đoàn sủng Salêdiêng thành của mình. Họ trung thành với Tin Mừng và học thuyết xã hội của Giáo Hội về công bằng. Chú tâm đến những dấu chỉ thời đại, họ tiếp tục công cuộc sáng tạo của Thiên Chúa và làm chứng cho Chúa Kitô qua sự liêm chính, làm việc chăm chỉ, kiên định trong cuộc sống; qua sứ mệnh giáo dục, và nghiêm chỉnh cập nhật nghề nghiệp; qua chia sẻ niềm vui và đau buồn trong đức tin; và sẵn sàng phục vụ trong mọi hoàn cảnh.
§2. Họ nhắm hình thành một lương tâm trưởng thành có phê phán hầu có thể tham dự cách có trách nhiệm vào đời sống xã hội qua lãnh vực văn hóa, kinh tế và chính trị. Họ khước từ tất cả những gì tán trợ bất công, áp bức, khai trừ và bạo lực, và họ can đảm hoạt động để dẹp bỏ nguyên nhân của chúng.
§3. Họ chú tâm và trân trọng chiều kích luân lý của văn hóa. Họ liên tục cập nhật về những phát triển trong các phương tiện truyền thông xã hội, trên hết là vì ảnh hưởng của chúng trên việc đào luyện người trẻ, gia đình và người bình dân.
§4. Theo khả năng và cơ hội của mình, họ hòa nhập vào cơ cấu văn hóa và chính trị xã hội, các nghiệp đoàn công nhân nhằm thăng tiến và đạt đến công ích. Phù hợp với những đòi hỏi của Tin Mừng về tự do và công lý, họ hoạt động cho việc kính trọng nhân quyền, và như vậy, họ hoạt động để canh tân và thuyên chữa những lối suy nghĩ và tập tục, các luật lệ và những cơ cấu xã hội của những lãnh vực trong đó họ sống.
Kh. 3. Hiệp Hội trong thực tại dân sự và giáo hội
§1. Với sự thúc đẩy của Hệ Thống Dự Phòng, Hiệp Hội chú tâm đến những kêu than của xã hội để thăng tiến toàn diện nhân vị và những quyền cơ bản của con người.
§2. Dưới sự hướng dẫn của Huấn Quyền, Hiệp Hội can đảm tham dự vào việc cổ võ một nền văn hóa xã hội-chính trị được Tin Mừng soi dẫn, và bảo vệ những giá trị nhân bản và Kitô hữu. Hiệp Hội soi sáng và động viên các thành viên của mình để một cách trách nhiệm đảm nhận những cam kết của chính mình trong xã hội.
Các Cộng tác Viên Salêdiêng cho thấy họ hiện diện và mang đến những nét đặc trưng độc đáo của đoàn sủng Salêdiêng vào những Hiệp Hội, các phong trào và đoàn thể tông đồ, các cơ quan giáo dục, những cơ quan phục vụ giới trẻ và gia đình như mục tiêu của mình, và cổ võ công bằng, hòa bình và tình liên đới với những dân tộc trên đường phát triển.
§3. Hiệp Hội chú tâm đặc biệt tới công việc thiện nguyện xã hội. Hiệp Hội tham gia vào những đề xuất về đào luyện và tham dự vào sáng kiến của những tổ chức được Kitô giáo soi dẫn.
§4. Hiệp Hội cam kết cổ võ cuộc đối thoại liên văn hóa và liên tôn.
Kh. 4. Những cơ cấu hoạt động
Cộng Tác Viên Salêdiêng cổ võ việc thành lập và vận hành các công cuộc của Hiệp Hội, tích cực trong các khu vực mình sinh sống; cách riêng:

  • trong môi trường dân sự, văn hóa, kinh tế xã hội và chính trị: chú tâm đến việc giáo dục giới trẻ, nhân quyền và đời sống gia đình;
  • trong những môi trường giáo hội: sẵn sàng cộng tác, hiệp lực một cách trách nhiệm với các Giám mục, các cha xứ, đặc biệt trong các cộng đoàn giáo xứ và trong những cơ quan sinh động của địa phận;
  • trong các môi trường do Tu Hội Salêdiêng, Dòng Con Đức Mẹ Phù Hộ hay các Nhóm khác trong Gia Đình Salêdiêng sinh động;
  • trong những công cuộc, được cộng đoàn tu sĩ khác hay những phong trào khác của Giáo Hội điều hành.
    Kh. 5. Những công cuộc do Hiệp Hội hay các thành viên của Hiệp Hội trực tiếp điều hành
    §1. Các Cộng Tác Viên Salêdiêng có thể diễn tả sự dấn thân tông đồ của mình trong những công cuộc được Hiệp Hội hay các thành viên Hiệp Hội trực tiếp quản trị. Theo đặc điểm và mục đích của mình, các công cuộc đó phải diễn tả tinh thần và đoàn sủng Salêdiêng, như đã được xác định trong những Điều Lệ tương ứng.
    §2. Trách nhiệm quản trị luôn luôn được trực tiếp liên kết với Trung Tâm địa phương nếu Hiệp Hội cổ võ hoạt động ấy, hoặc với các thành viên trực tiếp đảm nhận việc quản trị ấy; tuy nhiên, trong trường hợp như thế, không liên hệ đến các cấp cao hơn của Hiệp Hội.
    Hiệp Hội có thể lấy những quyết định cần thiết để được nhìn nhận là một tổ chức dân sự phi lợi nhuận trong những những nơi được xét là thích hợp.

Chương II
CỘNG TÁC VIÊN SALÊDIÊNG
HIỆP THÔNG VÀ CỘNG TÁC
Kh. 6. Tinh thần Gia Đình
§1. Để phát triển ý thức thuộc về Hiệp Hội, Cộng Tác Viên Salêdiêng nâng đỡ nhau qua việc chia sẻ những của cải thiêng liêng.
§2. Họ tỏ bày tình liên đới nhân bản và Kitô hữu một cách thực tiễn với những Cộng Tác Viên Salêdiêng đau ốm hay đang gặp khó khăn, đồng hành với họ bằng tình thương và kinh nguyện.
§3. Hiệp thông với các Cộng Tác Viên Salêdiêng và ân nhân đã qua đời và tri ân cuộc đời chứng tá của họ, các Cộng Tác Viên tiếp tục trung thành với sứ mệnh của họ. Họ cầu nguyện cho những người đã qua đời, cách riêng khi cử hành lễ tưởng nhớ Mẹ Magarita.
§4. Trung thành với Huấn Quyền và những đường hướng mục vụ về vấn đề gia đình, Hiệp Hội chú tâm đến những thành viên đang gánh chịu hậu quả của việc ly hôn hay ly dị. Hiệp Hội đồng hành với họ trong những khó khăn họ đang trải qua trong cuộc sống và đức tin. Một thái độ như thế sẽ được đáp lại bằng một thái độ tương tự về phía người hội viên, với sự cam kết sống hiện trạng của mình tin tưởng vào lòng thương xót vô hạn của Chúa Cha và duy trì một lối sống phù hợp với những bổn phận căn bản họ đã chấp nhận khi Tuyên Hứa.
§5. Hợp với tinh thần gia đình, Hiệp Hội mở rộng cho các Tu sĩ của Gia Đình Salêdiêng đã hợp pháp rời bỏ dòng nhưng cảm thấy mình vẫn còn gắn bó với Tinh Thần của Don Bosco.
Đối với những người này, việc họ chính thức gia nhập Hiệp Hội đòi hỏi chấp nhận Kế Hoạch Đời Sống Tông đồ. Nếu người đó yêu cầu việc này, họ thỏa thuận với Uỷ Viên về hành trình đào luyện. Họ cũng quyết định về cách thức tuyên hứa, hoặc sẽ là công khai hay riêng tư.
Kh. 7. Đồng trách nhiệm trong hành động
Để việc đồng trách nhiệm trong sứ mệnh được diễn tả thành đồng trách nhiệm trong hành động:
§1. Những người được giao phó những vai trò lãnh đạo trong Hiệp Hội, ở bất kỳ cấp nào, thực thi những vai trò ấy trong tinh thần hiệp thông, đồng trách nhiệm, hiệp lực và cộng tác;
§2. Căn cứ vào những hoàn cảnh và trách vụ khác nhau, các Cộng Tác Viên Salêdiêng cống hiến chứng tá của mình bằng cách tham gia vào trong đời sống Hiệp Hội theo những cách khác nhau:

  • người trẻ, đầy năng lực, góp phần vào sứ mệnh chung với sự bén nhạy và khả năng sáng tạo của mình;
  • người lớn và già cả, với kinh nghiệm chín chắn và sự trung thành lâu đời của mình, đem lại chứng tá một cuộc đời được đâm rễ vào Đức Kitô và sống trong những thực tại trần thế: trong gia đình, qua sự dấn thân vào trong lãnh vực công ăn việc làm và văn hóa của họ, và trong việc thực thi trách nhiệm xã hội, kinh tế và chính trị của họ.
  • Những ai không thể thực hiện được một hoạt động tông đồ tích cực nào sẽ cống hiến sức mạnh cho hoạt động giáo dục và tông đồ của mọi người khác bằng việc hiến dâng đau khổ và kinh nguyện của mình.
  • Các thành viên thuộc giáo sĩ triều trở thành Cộng Tác Viên Salêdiêng, cung cấp tác vụ phục vụ của mình.
    Kh. 8. Liên đới tài chánh
    §1. Cảm thức thuộc về và đồng trách nhiệm cũng bao gồm khía cạnh tài chánh của Hiệp Hội. Các Cộng Tác Viên Salêdiêng trợ giúp Hiệp Hội hoạt động và thực hiện sứ mệnh của mình ở cấp địa phương, tỉnh, miền và thế giới bằng những đóng góp tài chánh cách tự do và quảng đại như Don Bosco muốn: “Cộng Tác Viên không có đòi buộc tài chánh nào, nhưng họ dâng cúng hàng tháng hay hàng năm điều mà lòng bác ái của họ thúc đẩy”
    §2. Hiệp Hội cũng tham gia vào tình liên đới về kinh tế bằng cách gửi của dâng cúng về cho Bề Trên Cả. Với những dâng cúng ấy và sự trợ giúp của các ân nhân, Hiệp Hội nâng đỡ những nhu cầu của Hiệp Hội ở cấp thế giới, các sáng kiến truyền giáo và các Dự Phóng liên kết với sứ mệnh Salêdiêng.
    §3. Qua Hội Đồng thế giới, Hiệp Hội soạn thảo kế hoạch hàng năm về tình liên đới kinh tế dựa trên những nhu cầu sinh động để phát triển toàn thể Hiệp Hội.
    Kh. 9. Mối liên kết đặc biệt với Tu Hội Thánh Phanxicô Salê và Dòng Con Đức Mẹ Phù Hộ Các Giáo Hữu
    §1. Mối tương quan với các hội viên SDB và FMA được khai triển trong một bầu khí tín nhiệm hỗ tương. Việc sinh động hóa các Trung Tâm gắn kết với các công cuộc SDB liên hệ đến các Uỷ viên, cách riêng Giám tỉnh liên hệ của họ, và cộng thể tu sĩ địa phương. Những người này có trách nhiệm đóng góp theo những cách khác nhau vào việc đào luyện các thành viên; việc này giúp các thành viên cổ võ và làm chứng cho đoàn sủng Salêdiêng, cách riêng trong bối cảnh giáo dân của mình.
    §2. Với sự cộng tác của những người sinh động và hướng dẫn, các Giám tỉnh SDB và FMA đảm bảo sự hiệp nhất trong sự hiệp thông và sứ mệnh. Họ quyết tâm cổ võ sự thăng tiến thiêng liêng của các Trung Tâm và mời gọi các cộng thể tu sĩ làm chứng cho giá trị của sự thánh thiện và quảng đại phục vụ việc sinh động hóa.
    Kh. 10. Liên kết với các nhóm khác trong Gia Đình Salêdiêng
    §1. Các Cộng Tác Viên nhìn nhận linh đạo và sứ mệnh chung hiệp nhất họ với các nhóm khác trong Gia Đình Salêdiêng làm việc trong tình liên đới và hiệp lực hầu đối diện với các thách đố mục vụ của sứ mệnh Salêdiêng.
    Những mối dây liên kết với những Nhóm của Gia đình Salêdiêngđược diễn đạt cách riêng trong đồng trách nhiệm tông đồ. Điều này, trong một số trường hợp, đòi hỏi sự cam kết hỗ tương để thực hiện những mục tiêu chung, chia sẻ những quan tâm giáo dục, và làm cho dân chúng biết đến Hệ Thống Dự Phòng.
    Từng cá nhân Cộng Tác Viên Salêdiêng chịu trách nhiệm sinh động và cổ võ gia sản thiêng liêng mình nhận được.
    §2. Để thực hiện cụ thể sự hiệp thông với các nhóm khác trong Gia Đình Salêdiêng, các Cộng Tác Viên Salêdiêng được mời gọi tích cực tham dự các cuộc họp mặt, cử hành lễ, những ngày đào luyện, cập nhật; những thời khắc sinh động hóa, tình bằng hữu và thân thiện; những ngày cầu nguyện, tĩnh tâm và những ngày linh thao.
    §3. Họ mở rộng cách riêng cho việc cộng tác với các Hiệp Hội Salêdiêng giáo dân trong khi vẫn tôn trọng căn tính khác nhau của các hiệp hội này.

Chương III
TINH THẦN SALÊDIÊNG
CỦA CỘNG TÁC VIÊN SALÊDIÊNG
Kh. 11. Phong cách hoạt động
§1. Don Bosco là người thực tiễn và dám khởi xướng công cuộc, ngài làm việc không mỏi mệt và đầy sáng kiến, có một đời sống nội tâm sâu xa luôn sống động. Trung thành với tinh thần của ngài và chú tâm tới thực tại, các Cộng Tác Viên Salêdiêng cũng là người thực tiễn. Họ phân định các dấu chỉ của thời đại, và với tinh thần sáng kiến thúc đẩy chính mình đáp trả một cách thích hợp những nhu cầu của người trẻ tại địa phương và trong xã hội của họ. Họ sẵn sàng lượng giá và liên tục thích ứng hoạt động của mình.
§ 2. Hành động của họ được đi kèm bởi một thái độ chiêm niệm thôi thúc họ tìm kiếm và nhận ra mầu nhiệm Thiên Chúa hiện diện trong cuộc sống hằng ngày và nhận ra dung mạo của Đức Kitô nơi anh chị em mình. Hơn nữa, được Thần khí nâng đỡ, họ thanh thản đối diện những khó khăn, niềm vui và nỗi buồn của cuộc đời, đi liền với công việc tông đồ của họ.
Kh. 12. Đời sống thiêng liêng
§1. Cộng Tác Viên Salêdiêng nuôi dưỡng đời sống thiêng liêng của mình qua việc tham dự các bí tích, hằng ngày đối thoại với Thiên Chúa và việc đọc và suy niệm Thánh Kinh (Lectio Divina).
§2. Họ cử hành các ngày lễ truyền thống Salêdiêng.
§3. Nếu có thể, họ cũng tham dự những cuộc linh thao, tĩnh tâm và những sáng kiến khác mà Hiệp Hội cung cấp.
§4. Họ trân trọng việc linh hướng, tức là sự đồng hành, cách riêng là do Salêdiêng thể hiện (cả tu sĩ – FMA và SDB – và giáo dân).
§5. Hiệp Hội rộng mở với mọi người. Trong việc hoạch định, Hiệp Hội tạo thuận lợi cho các thành viên của mình tham gia cũng như cho những ai cảm thấy nên một với đoàn sủng Salêdiêng.

Chương IV
TƯ CÁCH THÀNH VIÊN VÀ VIỆC ĐÀO LUYỆN CỘNG TÁC VIÊN SALÊDIÊNG
Kh. 13. Gia nhập Hiệp Hội
§1. Người muốn gia nhập Hiệp Hội làm cho sự chọn lựa tự do và trách nhiệm của mình nên chín muồi, nhờ một số bước cơ bản: gặp gỡ nhóm Cộng Tác Viên của một Trung Tâm địa phương, tham gia vào con đường đào luyện và những sáng kiến được Trung Tâm đó cổ võ; chia sẻ tinh thần và sứ mệnh, được nâng đỡ bởi một sự hiểu biết tiệm tiến, tăng trưởng và kiểm định những động cơ cá nhân của họ.
§2. Người muốn gia nhập Hiệp Hội được những người chịu trách nhiệm của một Trung Tâm địa phương đón nhận. Họ thỏa thuận với người chịu trách nhiệm về đào luyện (Uỷ Viên và/hay người lo về đào luyện) một chương trình được thích ứng cho con đường phân định của họ và như một ứng sinh, họ bắt đầu con đường đào luyện này.
§3. Một khi tiến trình đào luyện đã hoàn tất, ứng sinh đệ trình đơn thỉnh nguyện lên Hội Đồng Trung Tâm để xin gia nhập Hiệp Hội.
§4. Hội Đồng Trung Tâm chuyển lên Hội Đồng Tỉnh thỉnh nguyện của ứng sinh cùng với bản lượng giá của mình dựa trên sự hiểu biết của ứng sinh về đoàn sủng của Don Bosco và những nội dung của Kế Hoạch Đời sống Tông đồ. Dựa trên bản lượng giá này, Hội Đồng Tỉnh sẽ phê chuẩn lời thỉnh nguyện ấy.
§5. Việc gia nhập Hiệp Hội được hoàn thành khi cá nhân Tuyên Hứa sống đời tông đồ. Lời hứa này là một sự cam kết có tính chất giáo hội và thiêng liêng mà ứng sinh đảm nhận qua một chọn lựa tự do và hiểu biết. Nhờ đó, ứng sinh đáp lại hồng ân của Chúa và ơn gọi của mình là sống ơn gọi cá nhân này theo đoàn sủng Salêdiêng.
§6. Lời Tuyên Hứa tông đồ này thông thường được thực hiện ở Trung Tâm địa phương theo cách thức được chính người đó đề ra và hợp với những bối cảnh khác nhau.
§7. Trong những tình trạng đặc thù, ở đó không có một Trung Tâm địa phương được thiết lập đúng theo pháp lý, một trong những Uỷ Viên thế giới, trong sự trao đổi với Bề Trên Cả, sẽ cho những hướng dẫn về con đường đào luyện. Chỉ dẫn này cũng có giá trị đối với những người mà bởi vì những khó khăn hậu cần (nơi chốn hay thời gian) không thể được hướng dẫn tới một Trung Tâm địa phương.
§8. Bề Trên Cả, Điều Phối Viên thế giới, Điều Phối Viên Tỉnh Hội, Điều Phối Viên Trung Tâm hay một thành viên được ủy quyền có thể chấp nhận lời ứng sinh Tuyên Hứa.
Kh. 14. Ý thức thuộc về
§1. Để giúp tăng trưởng ý thức thuộc về Hiệp Hội, và để liên tục nuôi dưỡng ơn gọi của mình, Hội Đồng của mọi Trung tâm địa phương hằng năm tạo dịp cho các Cộng Tác Viên Salêdiêng tuyên hứa lại, thường là vào dịp một ngày lễ Salêdiêng.
§2. Khi một thành viên không tuyên hứa lại trong khoảng thời gian ba năm, mà không có lý do chính đáng, và tách mình ra khỏi đời sống Hiệp Hội, thì Hội Đồng Trung Tâm có trách nhiệm thẩm định tình trạng ly tách này khỏi đời sống của Trung Tâm ấy.
§3. Hội Đồng Trung Tâm có trách nhiệm tiếp xúc huynh đệ và đồng hành với Cộng Tác Viên đã xa cách ấy, mời gọi họ đi vào tiến trình xem xét lại hiện trạng của họ thuộc về Trung Tâm ấy.
§4. Các Cộng Tác Viên, đặc biệt những ai dấn thân vào những hoạt động tông đồ hoặc việc thiện nguyện khác, làm chứng cho đoàn sủng chuyên biệt của mình; họ quảng bá công cuộc Hiệp Hội và làm cho Trung Tâm phong phú qua việc chia sẻ kinh nghiệm của mình.
Kh. 15. Những sáng kiến trong đào luyện ban đầu
§1. Tiến trình đào luyện đồng hành với các thành viên trong suốt cuộc đời bởi vì Chúa luôn kêu gọi chúng ta liên tục thăng tiến hoàn cảnh cá nhân và môi trường.
§2. Để đồng hành tiến trình phân định của một ứng sinh, Hiệp Hội cung cấp những khóa đào luyện uyển chuyển nhưng có trật tự dựa trên từng cá nhân hay trên cộng đoàn. Những khóa học này bao gồm việc học hỏi và phân tích những đề tài đào luyện liên quan đến chiều kích nhân bản, Kitô hữu, Giáo Hội và Salêdiêng như :

  • Lời Chúa
  • Các Văn Kiện Giáo Hội
  • Cuộc đời và công cuộc của Don Bosco
  • Hệ Thống Dự Phòng của Don Bosco
  • Kế Hoạch Đời Sống Tông Đồ của Hiệp Hội
  • Các Văn Kiện của Cha Bề Trên Cả
  • Các Văn Kiện của Hiệp Hội
  • Linh Đạo và sự thánh thiện Salêdiêng
  • Lịch Sử và sự phát triển đoàn sủng của Gia Đình Salêdiêng
  • Đời sống và công cuộc của các Thánh, các Chân phước, và những vị Đáng kính của Gia đình Salêdiêng.
    §3. Dấn thân tông đồ Salêdiêng và thông thường, tham dự vào đời sống của Trung Tâm là một yếu tố tạo thành việc đào luyện ban đầu.
    Kh. 16. Những sáng kiến đào luyện liên tục
    §1. Ý thức đến tầm quan trọng phải đào luyện liên tục, các Cộng Tác Viên Salêdiêng :
  • phát huy những tài năng nhân bản để thực thi tốt hơn trách nhiệm gia đình, nghề nghiệp và dân sự;
  • trưởng thành đức tin và đức ái, ngày càng kết hợp với Thiên Chúa để làm cho đời mình ngày càng trở nên Tin Mừng và Salêdiêng hơn;
  • dành thời gian để suy tư và học hỏi, đào sâu việc hiểu biết Kinh Thánh, giáo huấn của Giáo Hội, hiểu biết Don Bosco, và các văn kiện Salêdiêng.
    §2. Những sáng kiến mang tính đào luyện là:
  • những cuộc họp mặt định kỳ, mỗi tháng một lần, theo như đòi hỏi của cuộc sống và việc tông đồ của thành viên trong Trung Tâm; các hình thức gặp gỡ khác có thể mở rộng cho địa phương và xã hội dân sự;
  • những dịp cầu nguyện và phân định nghiêm túc;
  • tiếp xúc với những đoàn thể khác trong Gia Đình Salêdiêng ở mọi cấp;
  • đào sâu những văn kiện của Bề Trên Cả và những ấn phẩm của Gia Đình Salêdiêng, ưu tiên lưu tâm đến Đặc San Salêdiêng.
    §3. Các cuộc họp mặt để lên và duyệt lại kế hoạch và sáng kiến mà Hiệp Hội cổ võ ở các cấp khác nhau có tầm quan trọng trong kế hoạch đào luyện. Cần nên cổ võ những bàn thảo về những chủ đề chuyên biệt cùng với những nhóm khác nhau trong Gia Đình Salêdiêng. Phải chuẩn bị thích đáng để tham gia vào những sáng kiến như thế, và kết quả của những tham dự ấy nên được chia sẻ cho các thành viên của Trung Tâm.
    §4. Hiệp Hội quyết tâm sử dụng nhiều phương tiện truyền thông xã hội và các kỹ thuật mới để cộng tác vào việc đối thoại văn hóa, cổ võ việc phát triển khả năng phê phán và soạn thảo và phổ biến những ấn phẩm đào luyện sao cho mọi người đều có thể dùng đến bằng nhiều cách thức.
    Kh. 17. Việc Đào Luyện để lãnh đạo và phục vụ
    §1. Việc sinh động hóa và trách vụ lãnh đạo trong Hiệp Hội là một việc tông đồ qua đó Hiệp Hội tăng trưởng và trưởng thành trong sự hiệp thông, trong đời sống thiêng liêng và trong sứ mệnh Salêdiêng. Tất cả và từng Cộng Tác Viên Salêdiêng đều có thể được kêu mời cống hiến năng lực và khả năng của mình trong việc sinh động hóa và trong trách vụ lãnh đạo trong một thời hạn nhất định.
    §2. Khi được mời gọi, các Cộng Tác Viên Salêdiêng sẵn sàng chấp nhận nhiệm vụ phục vụ trong một thời gian. Họ thực thi nhiệm vụ ấy với sự phân định, hiệp lực và đào sâu việc đào luyện chuyên biệt cần để làm cho mình đủ năng lực cho trách vụ của mình, theo như những chương trình Hiệp Hội thiết định.
    Vào cuối nhiệm kỳ của mình, họ làm chứng cho việc họ thuộc về Hiệp Hội qua thái độ đơn sơ đặt mình sẵn sàng trước Hiệp Hội.
    §3. Cộng tác viên Salêdiêng có một vai trò trách nhiệm trong lãnh vực chính trị được mời gọi để tạm hoãn vai trò của mình như vị Điều Phối của Hiệp Hội ở bất kỳ cấp nào, hầu tránh đi bất kỳ sự cản trở nào.

Chương V
TỔ CHỨC HIỆP HỘI
Kh. 18. Trung Tâm địa phương và việc điều phối cấp Tỉnh Dòng
§1. Các Trung Tâm địa phương thường được thành lập với một nhóm tối thiểu là sáu thành viên sống và làm việc trong một khu vực nhất định. Các Trung Tâm được tổ chức thành Tỉnh sớm bao có thể, với một con số thích hợp, ít là ba Trung Tâm.
§2. Việc thiết lập một Trung Tâm đòi hỏi ba bước: sự đồng thuận của Hội Đồng Tỉnh; sự đồng thuận chính thức bằng văn bản của Giám Tỉnh liên hệ hay do Giám Mục địa phận nhờ một công báo pháp lý theo giáo luật, nếu Trung Tâm ở ngoài một công cuộc Salêdiêng; công báo tập thể của Hội Đồng Tỉnh với việc ban hành “Sắc lệnh thành lập” có chữ ký của vị Điều Phối Tỉnh.
§3. Trong trường hợp không thể quy chiếu tới một Hội Đồng Tỉnh để thiết lập một Trung Tâm địa phương, phải nại đến Hội Đồng Thế Giới với sự thỏa thuận trước của Giám tỉnh SDB hay FMA. Cách riêng trong những trường hợp sau: khi thiếu con số tối thiểu của các Trung Tâm; hay trong việc đào luyện một nhóm người quan tâm đến đoàn sủng Salêdiêng và đến Hiệp Hội. Họ thường lui tới hoặc một công cuộc hay khu vực Salêdiêng.
§4. Trung Tâm địa phương có thể tổ chức thành những nhóm có quan tâm chung và cam kết chuyên biệt. Hội Đồng Trung Tâm luôn theo dõi và sinh động những nhóm như thế. Một thành viên của những nhóm ấy nên là một thành phần của Hội Đồng. Cách khác, ta mong đợi một thành viên của Hội Đồng Trung Tâm sẽ đối thoại với nhóm có quan tâm đặc biệt đó để giữ liên hệ với Trung Tâm.
§5. Thành viên sống trong một khu vực không có Trung Tâm địa phương nào thì được sát nhập vào một Trung Tâm gần nhất. Trung Tâm này duy trì sự tiếp xúc với họ và giúp họ dấn thân vào các hoạt động.
§6. Hiệp Hội sẵn sàng có thể thiết lập những Trung Tâm Cộng tác Viên Salêdiêng ở những nơi sứ mệnh Salêdiêng cần đến.
§7. Các thành viên dấn thân vào một công cuộc tông đồ giáo dục Salêdiêng đều có thể khởi sự một Trung Tâm Cộng Tác Viên Salêdiêng gắn kết với công cuộc ấy. Các Trung Tâm này sẽ cam kết đề xướng một cách thức cho những đời trong công cuộc đó sẽ đến gần với Hiệp Hội.
§8. Những Cộng Tác Viên Salêdiêng, vì lý do di chuyển, không có khả năng hòa nhập vào đời sống của Trung Tâm địa phương, có thể vẫn giữ liên hệ với Trung Tâm địa phương gốc, nếu không có giải pháp nào khác. Hội Đồng địa phương của Trung Tâm gốc lấy trách nhiệm để giữ giao tiếp với họ, thậm chí qua những kỹ thuật truyền thông hiện đại nữa.
§9. Trên cấp tỉnh và cấp địa phương có liên quan, Giám tỉnh được nhìn nhận là người đại diện Bề Trên Cả qua việc sinh động hóa, hướng dẫn đoàn sủng và cổ võ Gia Đình Salêdiêng.
§10. Bề Trên Cả, cùng với sự đồng ý của Mẹ Tổng Quyền FMA, uỷ thác việc sinh động hóa, hướng dẫn và cổ võ các Trung Tâm được thiết lập như là thành phần của cộng thể FMA, cho Giám tỉnh FMA liên hệ.
§11. Khi một cơ sở SDB hay FMA là điểm quy chiếu cho một Trung Tâm địa phương bị quyết định dẹp bỏ, Trung Tâm địa phương buộc phải bảo đảm sự hiện diện Salêdiêng được tiếp tục tại địa phương đó, hoạt động với sự hiểu biết rõ rệt của Giáo Hội địa phương.
Giám tỉnh sẽ đồng ý với những người chịu trách nhiệm Trung Tâm địa phương về những giải pháp đối với những vấn đề hậu cần và tổ chức, theo sau sự dẹp bỏ công cuộc đó. Hơn nữa, họ cam kết bao có thể đảm bảo sự sinh động thiêng liêng cần thiết qua việc xác định một Uỷ Viên, và, cuối cùng, qua sự thiết lập một Trung tâm mới theo giáo luật.
§12. Khi các Trung Tâm địa phương được thiết lập liên kết với những công cuộc SDB hay FMA gần bên, thì các tương quan hiệp thông và cộng tác được thiết lập quả là thích đáng và phù hợp với những ai nhìn nhận mình tham dự vào cùng một sứ mệnh và tinh thần chung, trong khi vẫn tôn trọng sự tự lập của mỗi Trung Tâm.
Kh. 19. Hội Đồng Địa Phương
§1. Hiệp Hội tại cấp địa phương được một Hội Đồng Trung Tâm địa phương hướng dẫn cách tập thể. Hội Đồng Trung Tâm bao gồm số thành viên thích đáng – thông thường từ ba đến bảy người – được các Cộng Tác Viên Salêdiêng của Trung Tâm địa phương bầu chọn và Uỷ Viên SDB hay FMA được Giám tỉnh liên hệ bổ nhiệm. Uỷ Viên có tiếng nói tích cực cùng với quyền bỏ phiếu, ngang với những thành viên khác của Hội Đồng.
Nếu Trung Tâm địa phương được thiết lập nơi một trong những nhà vốn lệ thuộc trực tiếp vào một vị Bề Trên Tổng quyền, việc bổ nhiệm Uỷ Viên được dành cho vị Bề Trên Tổng quyền đó.
§3. Các thành viên Hội Đồng Trung Tâm được bầu giữ nhiệm vụ trong ba năm và có thể được tái bầu chỉ trong một nhiệm kỳ ba năm tiếp theo nữa mà thôi.
Sau khi đã hoàn tất sự ủy nhiệm của mình, họ có thể được tái bầu chọn theo một thời kỳ ba năm nữa.
Để có một nhiệm kỳ ba năm lần thứ ba liên tiếp, cần phải nại đến cơ cấu thỉnh nguyện, theo những nguyên tắc của Bộ Giáo luật, các khoản 180-183, cùng với sự miễn chuẩn tương ứng từ Bề Trên Cả.
Một khi các thành viên được bầu chọn và công khai chấp nhận nhiệm vụ là Hội Đồng Trung Tâm, họ qui tụ lại để xác định những vai trò của họ là gì. Sự phân chia những vai trò này có thể xảy ra bằng bầu phiếu kín hoặc công khai.
Trong một lượng thời gian hợp lý sau ngày bầu chọn, sẽ xảy ra việc chuyển giao quyền từ Điều Phối Viên hiện hành sang vị Tân Điều Phối Viên.
§3. Nếu một Cộng Tác Viên Salêdiêng được Hội nghị của Trung Tâm địa phương bầu chọn từ chối, thì Cộng Tác Viên có nhiều phiếu nhất giữa những người không được đắc cử sẽ thế chỗ.
Kh. 20. Sự hướng đạo tập thể
§1. Theo nguyên tắc của Bộ Giáo luật khoản 119, để có được một hoạt động tập thể, cần đến một vài điều kiện được thiết định trước: sự triệu tập tất cả những thành viên của Hội Đồng; đa số tuyệt đối của những thành viên của Hội Đồng phải hiện diện; rồi, theo việc bầu phiếu, việc tính đa số tuyệt đối được thực hiện theo con số của những thành viên hiện diện cách hiệu lực cho hoạt động tập thể này (quá bán cộng một).
§2. Để việc bầu chọn một Điều Phối Viên có thể là một hành vi tập thể – theo những nguyên tắc của Bộ Giáo luật khoản 119:

  1. cần đa số tuyệt đối cho lần bỏ phiếu lần thứ nhất và thứ hai;
  2. “Sau hai lần bỏ phiếu không đạt, sự chọn lựa là giữa hai ứng viên có được số phiếu lớn hơn cả, hay, nếu có một số người (với số phiếu bằng nhau)” – hoặc trong trường hợp tất cả những ứng sinh nhận được một số phiếu bằng nhau, hay trong trường hợp có số phiếu khác biệt giữa một ứng viên được đa số tương đối và những ứng viên khác có một số phiếu ngang nhau, thì ta chọn giữa hai người có số tuổi đời cao hơn”;
  3. “Sau lần bỏ phiếu thứ ba, nếu vẫn hòa, thì người cao niên hơn sẽ được coi là đắc cử”;
  4. lần bỏ phiếu lần thứ ba là dứt khoát trong mọi trường hợp và vì thế, một khi đã được thực hiện, tiến trình bầu phiếu không được kéo dài thêm nữa.
    §3. Tuy nhiên, nếu hoạt động tập thể liên quan đến những vấn đề khác:
  5. cần thiết đa số tuyệt đối cho lần bầu thứ nhất;
  6. nếu bỏ phiếu lần 1 không ngã ngũ, thì bỏ phiếu lần 2, vẫn cần đến đa số tuyệt đối;
  7. nếu không đạt được đa số lần bỏ phiếu thứ hai, quyết định đang bàn cãi không được phê chuẩn; nếu vẫn hòa (ngang nhau), vị Điều Phối Viên, chủ sự Hội Đồng theo nguyên tắc của khoản 21§1 của Kế Hoạch Đời Sống Tông Đồ có thể công khai thêm phiếu của mình để bẻ gãy sự ngang nhau và do đó quyết định vấn đề.
    §4. Danh sách của các ứng viên có đủ tư cách được bầu làm thành viên Hội Đồng chứa đựng tất cả tên được những Hội Đồng và/hay Hội nghị ở các cấp khác nhau đề nghị.
    Kh. 21. Những bổn phận của Hội Đồng Trung Tâm như việc phục vụ tông đồ của họ
    §1. Nhằm bảo đảm sinh hoạt của Hiệp Hội trong các mục tiêu tông đồ và truyền giáo, các trách vụ của Hội Đồng Trung Tâm chính là:
  • Lên kế hoạch, cổ võ và cộng tác với những sáng kiến tông đồ và đào luyện của thành viên.
  • Chăm sóc mối dây hiệp nhất và hiệp Hội Đồng Tỉnh hay Hội Đồng thế giới ở nơi nào không có Hội Đồng Tỉnh.
  • Kiện cường những mối liên hệ và mối dây hiệp thông với Tu Hội Salêdiêng, Dòng Con Đức Mẹ Phù Hộ các Giáo Hữu, và các Nhóm khác trong Gia Đình Salêdiêng.
  • Quyết định triệu tập Phiên Họp khoáng đại.
  • Giám sát việc quản trị tài sản của Hiệp Hội.
  • Phê chuẩn ngân sách và quân bình chi thu để trình bày cho các thành viên.
  • Đồng hành với các ứng sinh trong việc họ tham gia vào Trung Tâm và cung cấp cho họ phẩm chất đào luyện, để ý đến những hướng dẫn đào luyện của Hiệp Hội được Hội Đồng Tỉnh thừa nhận.
  • Sử dụng khả năng chuyên môn và sự phong phú thiêng liêng của mọi thành viên sao cho hiệu quả đối với thiện ích của Hiệp Hội, trân trọng sự khác biệt của họ và một cách thật xây dựng hướng dẫn họ hướng tới ơn hiệp nhất.
  • Sinh động hóa những sáng kiến cổ võ sự trung thành ơn gọi của các thành viên và việc họ tích cực tham gia vào đời sống của Trung Tâm, để ý đến những nhóm khác nhau tạo thành Trung Tâm, và tán trợ những lối đường khác biệt.
  • Phổ biến và làm cho mọi người biết đến lối thiêng của Don Bosco (chẳng hạn, bằng những học tập về Mẹ Magarita, những “gia đình Bosco” và những sáng kiến tương tự khác).
  • Đề xuất ơn gọi Cộng Tác Viên, hoạch định những sáng kiến để chào đón những ứng sinh.
  • Thừa nhận những sáng kiến khác để cổ võ một hoạt động nhiệm ý của Trung Tâm, đang khi tôn trọng những chỉ dẫn của Kế Hoạch Đời sống tông đồ.
    §2. Mỗi Hội Đồng Địa Phương sẽ bầu chọn trong số các thành viên người đời:
  • một Điều Phối Viên;
  • một Thủ Quỹ;
  • một Thư Ký.
    Hơn nữa, mỗi Hội Đồng chỉ định một nhân sự từ các thành viên của Hội Đồng chịu trách nhiệm việc đào luyện: trong trường hợp thiếu nhân sự, vị Điều Phối Viên, bàn thảo với Uỷ Viên, có thể tìm ra một Cộng Tác Viên Salêdiêng không thuộc thành phần của Trung Tâm này để đảm nhận vai trò này.
    Kh. 22. Những trách vụ trong Hội Đồng Trung Tâm
    Những trách vụ cá nhân được trao cho những thành viên khác nhau đảm nhận trách nhiệm cai quản và sinh động trong Hội Đồng. Hành động thiết lập đầu tiên là chỉ định những vai trò (Điều Phối Viên, Thủ Quỹ, Thư Ký, Đào Luyện Viên, v. v. ) cùng với việc bầu chọn Điều Phối Viên.
    §1. Trách nhiệm của vị Điều Phối Viên Trung Tâm là:
  • triệu tập và chủ tọa phiên họp, giám sát việc thực thi các quyết định;
  • thông tin cho Trung Tâm về việc hoạch định và những hoạt động kiểm chứng được Hội Đồng Tỉnh thiết lập;
  • đại diện cho Hiệp Hội và duy trì mối tương quan chính thức, nhân danh Hội Đồng, với các tổ chức đời và Giáo Hội và với những Đoàn Thể khác trong Gia Đình Salêdiêng;
  • tham dự vào Hội Đồng Tham Vấn địa phương của Gia Đình Salêdiêng;
  • lấy những quyết định trong những trường hợp khẩn cấp, về những vụ việc thuộc thẩm quyền của Hội Đồng, sau đó phải có bản tường trình về những việc đó cho toàn thể Hội Đồng;
  • đệ trình cho Hội Đồng Tỉnh những đơn thỉnh nguyện xin gia nhập Hiệp Hội, kèm theo ý kiến của Hội Đồng Trung Tâm và những thông tin cần thiết khác (x. tài liệu ASE);
  • chuẩn bị những bản lượng giá vào cuối nhiệm kỳ ba năm, triệu tập việc bầu chọn để thay thành viên Hội Đồng, và thận trọng lưu tâm đến việc chuyển giao các vấn đề giữa Hội Đồng mãn nhiệm kỳ và Hội Đồng tiếp sau;
  • Cùng với những vị thành viên được bầu chọn, ấn định ngày để chia sẻ với những Trung Tâm tin tức về những vai trò nội bộ của Hội Đồng, trong một thời gian ngắn từ ngày bầu chọn.
    §2. Thủ Quỹ địa phương có vai trò:
  • bảo trì tài sản thuộc về Hiệp Hội;
  • khích lệ tình liên đới truyền giáo nơi các thành viên;
  • theo đuổi những sáng kiến nhằm tài trợ các sáng kiến đã được lên kế hoạch;
  • tìm ra những nguồn hỗ trợ khả dĩ và sự hỗ trợ tài chánh, ngay cả ở bên ngoài Hiệp Hội;
  • làm cho các thành viên nhạy cảm đối với những hoạt động liên đới vì những thực tại bấp bênh nhất của Hiệp Hội;
  • gom góp những đóng góp để chuyển cho Bề Trên Cả và Ngài có thể sử dụng chúng cho những tình trạng khẩn cấp trong lãnh vực truyền giáo Salêdiêng;
  • cổ võ những sáng kiến và tìm ra những nguồn liên đới để cổ võ và nâng đỡ Hội Đồng Tỉnh và Hội Đồng Thế Giới, theo sự hỗ trợ truyền giáo;
  • giữ sổ sách tài khoản cho cập nhật (xem ghi chú thứ nhất của tài liệu ASE, “sinh động tình liên đới tài chánh”);
  • trình bày ngân sách và cân bằng chi thu cho Hội Đồng Trung Tâm (ASE);
  • trình bày “minh xác tiền mặt” hàng năm cho Hội Đồng Tỉnh (ASE).
    §3. Trách nhiệm của vị Thư Ký là:
  • Ghi biên bản các phiên họp;
  • hỗ trợ Điều Phối Viên trong việc thi hành các hoạt động pháp lý đối với Giáo Hội và xã hội dân sự;
  • chăm lo gìn giữ các văn kiện trong công hàm thuộc Hội Đồng và lo sao cho chúng được cập nhật;
  • cứ ba năm, thông tri những dữ liệu được cập nhật cho Hội Đồng Tỉnh.
    §4. Đả thông với Hội Đồng Tỉnh, vị lo về đào luyện có trách nhiệm:
  • Chuẩn bị chương trình đào luyện ứng sinh;
  • Chuẩn bị chương trình đào luyện liên tục hàng năm;
  • Giám sát và theo dõi mọi lãnh vực chuyên biệt của đào luyện, với sự đồng ý của Uỷ Viên.
    Kh. 23. Uỷ viên
    §1. Qua các Uỷ Viên của mình, Giám Tỉnh SDB và FMA sinh động hóa các Trung Tâm được thiết lập liên hệ với các công cuộc của họ hay có liên hệ với Tỉnh Dòng;
    §2. Mỗi Hội Đồng Trung Tâm có một Ủy Viên SDB hay FMA. Mỗi Hội Đồng Tỉnh và Hội Đồng Thế Giới đều có Uỷ Viên FMA và SDB. Họ là những vị sinh động thiêng liêng, tiên vàn chịu trách nhiệm về toàn bộ việc đào luyện tông đồ Salêdiêng. Theo như tiêu chuẩn của khoản 19 trong Điều Lệ hiện hành, họ là thành viên do chức vụ của Hội Đồng liên hệ.
    §3. Uỷ Viên cấp địa phương và cấp tỉnh được các Giám tỉnh bổ nhiệm, sau khi lắng nghe ý kiến của các thành viên trong Hội Đồng tương ứng, và luôn ghi nhận bao có thể nhu cầu của các Trung Tâm.
    §4. Nếu Trung Tâm địa phương không được thiết lập như là thành phần của một công cuộc SDB hay FMA, Giám Tỉnh có thể chỉ định một Cộng Tác Viên Salêdiêng hay một thành viên khác của Gia Đình Salêdiêng đã được chuẩn bị thích hợp làm Uỷ Viên địa phương.
    §5. Khi cần thiết hay thích hợp, một Uỷ Viên có thể chịu trách nhiệm này cho hơn một Trung Tâm địa phương.
    §6. Uỷ viên Tỉnh sinh động các Uỷ viên của Trung Tâm địa phương để giúp cổ võ họ đảm nhận các trách nhiệm của mình liên quan đến sự sinh động thiêng liêng của các Cộng Tác Viên Salêdiêng và đồng trách nhiệm trong việc đào luyện tông đồ Salêdiêng của họ.
    §7. Đả thông với các Uỷ Viên miền và/hay thế giới, các Uỷ Viên Tỉnh cổ võ những sinh hoạt cập nhật và đào luyện mọi Uỷ Viên trong Tỉnh về chiều kích đoàn sủng Salêdiêng, với sự qui chiếu biệt loại đến vai trò sinh động của họ. Những sinh hoạt này sẽ mở ra cho việc tham gia vào tư cách lãnh đạo của Hiệp Hội.
    Kh. 24. Tổ Chức Tỉnh và Hội Đồng Tỉnh
    §1. Các Trung Tâm địa phương tại một nơi chốn nhất định, được Bề Trên Cả và Hội Đồng thế giới thiết lập, tạo thành một Tỉnh.
    §2. Ở cấp tỉnh, Hiệp Hội được một Hội Đồng Tỉnh cai quản cách tập thể.
    §3. Hội Đồng Tỉnh bao gồm các thành viên được các thành viên Hội Đồng của các Trung Tâm địa phương bầu chọn trong Hội Nghị Tỉnh. Hội Đồng Tỉnh bao gồm một số thích hợp các thành viên từ bốn đến mười hai, cũng như Uỷ Viên tỉnh SDB và FMA. Họ có quyền bỏ phiếu.
    §4. Mỗi Hội Đồng Tỉnh tuyển chọn trong số các thành viên giáo dân của mình:
  • một Điều Phối Viên;
  • một Thủ Quỹ;
  • một Thư Ký;
  • một người trách nhiệm về Đào Luyện;
  • những thành viên khác thực thi vai trò sinh động trong những nhóm chuyên biệt.
    §5. Các thành viên Hội Đồng tỉnh được bầu chọn giữ nhiệm vụ trong nhiệm kỳ ba năm, và có thể được tái bầu cho thời kỳ ba năm sau đó. Một khi mãn nhiệm kỳ thứ hai, sau một ngắt quãng ba năm, họ có thể được tái bầu chọn.
    Một khi bầu chọn đã xong, những thành viên được bầu chọn họp lại để xác định vai trò của từng người trong Hiệp Hội. Sự phân chia những vai trò có thể được thực hiện qua bầu kín hoặc công khai.
    Kh. 25. Trách vụ của Hội Đồng Tỉnh như thuộc về sự phục vụ tông đồ của họ
    Nhằm bảo đảm sinh hoạt Hiệp Hội liên quan đến các mục đích tông đồ, hiệp thông với Hội Đồng Thế Giới, các trách vụ của Hội Đồng Tỉnh là:
    §1.
  • Cổ võ những hướng dẫn của Hiệp Hội và phối kiểm những sáng kiến đào luyện và tông đồ;
  • hỗ trợ các Trung Tâm địa phương, trân trọng sự cam kết của các Hội Đồng ấy;
  • cùng với Hội Đồng địa phương, thiết lập hai buổi gặp gỡ về đào luyện trong năm theo những đường hướng của Hiệp Hội đề ra.
  • ở đâu có thể được, tổ chức ít nhất hai sáng kiến đào luyện trong năm.
    §2.
  • Tiếp nhận ứng viên vào Hiệp Hội sau khi lắng nghe đề xuất và ý kiến của Hội Đồng địa phương;
  • thực thi việc sa thải theo cách tập thể;
    §3.
  • Cổ võ mối dây hiệp nhất và hiệp thông với Hội Đồng Trung Tâm và Hội Đồng thế giới;
  • kiện cường mối dây đoàn sủng với Tu Hội Thánh Phanxicô Salê và Dòng Con Đức Mẹ Phù Hộ các Giáo Hữu, và với những nhóm khác của Gia Đình Salêdiêng;
  • Cho ý kiến về việc bổ nhiệm Uỷ Viên Tỉnh;
    §4.
  • Cổ võ việc canh tân lời Tuyên Hứa như thời khắc cử hành vốn tạo nên phẩm chất cho con đường trung thành của họ;
  • cổ võ những việc linh thao, những dịp thiêng liêng quan trọng trong đó sự trung thành ơn gọi của các thành viên được canh tân với lời tuyên hứa;
  • giám sát và sinh động hóa các sáng kiến cổ võ lòng trung thành ơn gọi của các thành viên và sự tích cực tham gia vào đời sống Hiệp Hội.
    §5.
  • Tiếp nhận và xem xét bản “minh xác tiền mặt” trong quản trị tài chánh của các Trung Tâm địa phương.
  • Phê chuẩn và gởi bản chi thu tài chánh của các Trung Tâm địa phương cho Hội Đồng Trung Tâm.
  • Phê chuẩn và gởi bản “minh xác tiền mặt” trong quản trị tài chánh của mình đến Hội Đồng Thế Giới.
  • Triệu tập và tổ chức Hội Nghị Tỉnh.
  • Cổ võ các Trung tâm địa phương tham gia vào các sáng kiến của Hội Đồng Tham Vấn Miền.
  • Giám sát việc quản trị tài chánh của Hiệp Hội trong Tỉnh.
    Kh. 26. Trách Vụ của những thành viên trong Hội Đồng Tỉnh:
    Có nhiều trách vụ được trao phó cho các thành viên đảm nhận trách nhiệm cai quản trong Hội Đồng:
    §1. Điều Phối Viên Tỉnh có nhiệm vụ:
  • Triệu tập và chủ tọa phiên họp, phối kiểm công việc và xem xét các quyết định được thực thi.
  • Đại diện Hiệp Hội và nhân danh Hội Đồng duy trì tương quan với các tổ chức đời và giáo hội và với các Đoàn Thể khác trong Gia Đình Salêdiêng.
  • Lấy những quyết định trong những trường hợp khẩn cấp, miễn là trong thẩm quyền của Hội Đồng tỉnh, và sau đó tường trình những việc này cho Hội Đồng.
  • Triệu tập việc bầu chọn thay đổi thành viên Hội Đồng.
  • Thỏa thuận với những người hữu trách của Trung Tâm địa phương để đồng hành với những Cộng Tác Viên thấy mình không thể tiếp xúc thường xuyên với Trung Tâm.
  • Cộng tác với vị Cố Vấn Thế Giới đặc trách Miền bằng cách cổ võ những sáng kiến của họ và thông tri cho vị ấy biết đời sống và sinh hoạt của Hiệp Hội.
  • Chuẩn bị bản lượng giá vào cuối nhiệm kỳ ba năm, triệu tập những cuộc bầu chọn để canh tân Hội Đồng và thận trọng chuyển giao quyền lãnh đạo từ Hội Đồng hiện hành sang Hội Đồng sắp tới.
    §2. Vị Thủ Quỹ có nhiệm vụ:
  • Bảo trì tài sản thuộc về Hiệp Hội.
  • Sinh động tình liên đới truyền giáo về kinh tế của những trung tâm địa phương.
  • Đề nghị những nguồn tài chánh và sự hỗ trợ tài chánh có thể được.
  • Cổ võ quỹ liên đới để tài trợ cho những sinh hoạt của Hiệp Hội, vốn bấp bênh nhất.
  • Cập nhật sổ thu chi.
  • Đệ trình ngân sách và tổng kết chi thu cho Hội Đồng Tỉnh.
  • Đệ trình bản “minh xác tiền mặt” cho Hội Đồng Thế Giới.
    §3. Vị Thư Ký có vai trò:
  • Hỗ trợ Điều Phối Viên trong việc thực thi các hoạt động pháp lý đối với Giáo Hội và xã hội dân sự.
  • Ghi biên bản các phiên họp của Hội Đồng.
  • Lo gìn giữ các văn kiện trong công hàm thuộc Hội Đồng được cập nhật.
  • Thông tri những dữ kiện cập nhật cho Hội Đồng thế giới từng ba năm một.
    §4. Vị đặc trách việc đào luyện có vai trò:
  • Soạn thảo một kế hoạch đào luyện cho các ứng sinh được những người chịu trách nhiệm về đào luyện tại cấp địa phương đồng ý.
  • Soạn thảo chương trình đào luyện liên tục trên cấp tỉnh.
  • Giám sát và theo dõi mọi lãnh vực đào luyện riêng biệt trong tỉnh, thuận thảo với những Uỷ Viên.
    Kh. 27. Các trách vụ chuyên biệt của Hội Đồng Tỉnh
    §1. Trách vụ của Hội Đồng Tỉnh là thành lập và hủy bỏ các Trung Tâm địa phương qua một Sắc Lệnh được Uỷ Viên Tỉnh ký, với sự thỏa thuận của Giám Tỉnh SDB hay FMA.
    Để thành lập hay hủy bỏ một Trung Tâm địa phương không gắn kết với một cơ sở SDB hay FMA, cần phải có văn bản thỏa thuận của Giám Mục giáo phận.
    §2. Việc sát nhập một Trung Tâm địa phương gắn kết với một cơ sở FMA vào một Trung Tâm địa phương gắn kết với một cơ sở SDB hoặc ngược lại, được diễn ra theo hành động tập thể của Hội Đồng Tỉnh, sau khi lắng nghe các Hội Đồng Trung Tâm có liên hệ, với sự đồng ý của Giám tỉnh SDB/FMA liên hệ, qua một Sắc Lệnh của Điều Phối Viên của Hội Đồng Tỉnh ấy.
    Trung Tâm địa phương mới đảm nhận hiện trạng tài chánh của hai Trung Tâm địa phương trước, trừ phi có một chỉ dẫn khác được đưa ra trong “sắc lệnh sát nhập”.
    §3. Để Hội Đồng Tỉnh có thể đối diện hay đào sâu những quan tâm tông đồ-mục vụ đặc thù vốn hữu ích cho việc hiện thực những mục đích và mục tiêu của Tỉnh, Hội Đồng Tỉnh có thể mời những người ngoài Hội Đồng tham gia vào những phiên họp của Hội Đồng, bởi vì thẩm quyền uy tín chuyên biệt của họ, dù họ có thuộc về Hiệp Hội hay Gia Đình Salêdiênghay không.
    §4. Hội Đồng tỉnh xác định những cách thái để thiết lập những Trung Tâm Cộng Tác Viên Salêdiêngở đâu mà sứ mệnh Salêdiêng cần đến.
    Kh. 28. Hội Nghị Tỉnh
    §1. Hội Nghị Tỉnh tạo nên bởi tất cả các thành viên của các Hội Đồng Trung Tâm và những thành viên của Hội Đồng Tỉnh, kể cả các Uỷ viên.
    §2. Hội Nghị Tỉnh thông thường được triệu tập bởi vị Điều Phối Viên Tỉnh mỗi năm để lên kế hoạch và kiểm chứng.
    §3. Cách riêng, mỗi ba năm vị Điều Phối Viên Tỉnh triệu tập Hội nghị nhân dịp canh tân lại Hội Đồng Tỉnh.
    §4. Hội Nghị Tỉnh có trách vụ là:
  • Theo những hướng dẫn của Hội Đồng Thế Giới, thiết lập những những chỉ dẫn cụ thể cho Hội Đồng Tỉnh trong những lãnh vực đào luyện và sứ mệnh.
  • Lượng giá sự tăng trưởng và phát triển của Hiệp Hội trong Tỉnh.
  • Bầu chọn Hội Đồng Tỉnh, theo những hình thái do quy chế của Hội nghị lập nên;
    §5. Những hình thái tổ chức được xác định trong quy chế của Hội nghị được Hội Đồng Tỉnh chuẩn bị và được Hội Đồng Thế Giới phê chuẩn.
    Kh. 29. Hội Nghị Miền
    §1. Hội Nghị Miền bao gồm mọi thành viên của Hội Đồng Tỉnh của một miền và các thành viên của Hội Đồng Tham Vấn Miền, nếu như Hội Đồng này đã được thiết lập.
    §2. Hội Nghị Miền được Hội Đồng thế giới ủy cho vị Cố vấn thế giới trong Miền triệu tập.
    §3. Hội Nghị Miền có thể là một hội nghị bầu chọn hay hội nghị đào sâu những đề tài đặc thù để phát triển đoàn sủng Salêdiêngvà của Hiệp Hội.
    Nhiệm vụ của Hội Nghị Miền là:
  • Soạn thảo và trình bày Điều Lệ vận hành Hội Nghị Miền để Hội Đồng thế giới phê chuẩn;
  • Bầu chọn vị Cố Vấn thế giới mới cho Miền theo như những thủ tục đã được Bề Trên Cả phê chuẩn và lưu ý đến con số các tu sĩ có quyền bỏ phiếu không được quá 1/3 tổng số người có quyền bỏ phiếu;
  • Định kỳ lượng giá tình trạng của Hiệp Hội trong miền và đề ra những đường hướng hoạt động.
    Kh. 30. Tác Vụ của Cha Bề Trên Cả
    §1. Bề Trên Cả làm cho Don Bosco, sứ mệnh và tinh thần Ngài hiện diện ngày nay. Nơi ngài ta nhìn nhận sự phục vụ cho sự hiệp nhất như đấng kế vị Don Bosco và như người cha chung của chúng ta, trung tâm hiệp nhất của toàn Gia đình Salêdiêng.
    Trong Hiệp Hội, ngài có trách vụ, theo đoàn sủng, cống hiến những chỉ dẫn cần thiết để đảm bảo đoàn sủng được phong phú, Hiệp Hội được phát triển, và những sáng kiến tông đồ và đào luyện được chín muồi.
    §2. Trực tiếp hoặc qua Phó Bề Trên Cả hoặc đại diện của mình, Bề Trên Cả thông thường thực thi tác vụ của mình trong Hội Đồng thế giới các Cộng Tác Viên Salêdiêng, tiên vàn, để sinh động hóa toàn Hiệp Hội và phối hợp các sáng kiến tông đồ và đào luyện.
    Kh. 31. Hội Đồng Thế Giới và Trách vụ
    §1. Để đạt được những mục tiêu tông đồ và truyền giáo của Kế Hoạch Đời Sống Tông Đồ và để sức sống và sự đồng trách nhiệm thêm hiệu quả, cha Bề Trên Cả sử dụng Hội Đồng Thế Giới.
    §2. Hội Đồng Thế Giới cộng tác với Bề Trên Cả và Phó Bề Trên Cả trong việc cai quản và sinh động hóa Hiệp Hội: Hội Đồng cung cấp những đường hướng tổng quát liên quan đến những sáng kiến đào luyện, tông đồ, tổ chức và quản trị được trao phó cho các Cố Vấn thế giới để sinh động hóa.
    §3. Hội Đồng Thế Giới bao gồm:
  • Điều Phối Viên thế giới
  • Thủ Quỹ thế giới
  • Thư Ký thế giới
  • Ủy Viên thế giới SDB
  • Ủy Viên thế giới FMA
  • Các Cố Vấn thế giới cho từng Miền được hội nghị miền tương ứng bầu chọn.
    §4. Trách vụ của Hội Đồng thế giới là:
  • Cổ võ mối liên kết giữa các Miền và Bề Trên Cả.
  • Hiểu biết và trình bày hiện trạng của các Miền khác nhau cho Bề Trên Cả.
  • Cung cấp cho Bề Trên Cả thông tin đúng lúc và hữu ích để ngài lấy những quyết định và đường hướng.
  • Cổ võ việc áp dụng thực tiễn những quyết định và đường hướng cho Hiệp Hội đến từ Bề Trên Cả.
    §5. Vai trò chuyên biệt của các Cố Vấn thế giới được Hội Đồng xác định trong phiên họp đầu tiên trong đó Điều Phối Viên được bổ nhiệm, theo như những chỉ dẫn của Kế Hoạch Đời Sống Tông Đồ và được một Cẩm nang loại biệt quy định.
    Thể thức các Cố Vấn tham dự vào những phiên họp của Hội Đồng Thế Giới cũng được đề ra trong Cẩm nang này.
    §6. Hội Đồng thế giới phê chuẩn Cẩm nang được các thực thể có thẩm quyền tại cấp Tỉnh soạn thảo.
    §7. Hội Đồng thế giới đệ trình Cẩm nang và những quy luật của Hội Nghị thế giới cho Bề Trên Cả để phê chuẩn. Những thủ tục qua đó bầu chọn một Cố Vấn Thế Giới tuân theo những chỉ định của Bộ Giáo luật khoản 164.
    §8. Hội Đồng thế giới bảo đảm việc sinh động hóa cấp thế giới qua những phương tiện truyền thông thích hợp trong những ngôn ngữ chính của Hiệp Hội.
    §9. Những miền mà Hiệp Hội thông thường được tổ chức là:
  • Nam Mỹ vùng chóp
  • Châu phi và Madagascar
  • Đông Á và Châu Đại dương
  • Nam Á
  • Braxin
  • Trung và Đông Âu
  • Trung và Tây Âu
  • Iberica
  • Trung Mỹ
  • Ý và Trung đông cùng Malta
  • Thái bình dương và Nam vịnh Cariberia.
    Kh. 32. Hoạt động của Hội Đồng Thế Giới
    §1. Để sinh hoạt của Hội Đồng được trôi chảy và hữu hiệu hơn, Hội Đồng thế giới sử dụng một Văn Phòng thường trực thế giới (WES) bao gồm Điều Phối Viên thế giới, Thư Ký Hội Đồng thế giới, Thủ Quỹ Hội Đồng thế giới, Uỷ viên thế giới SDB và FMA.
    §2. Để bổ nhiệm Điều Phối Viên thế giới, các Cố Vấn thế giới, Uỷ Viên thế giới SDB và FMA, Hội Đồng thế giới đề xuất cho Bề Trên Cả danh sách ba người, những người này có thể đến từ bên ngoài Hội Đồng.
    Một cuộc bỏ phiếu kín bầu chọn Thủ Quỹ và Thư Ký thế giới, những người này cũng có thể được chọn từ những Cộng Tác Viên bên ngoài Hội Đồng. Trong trường hợp những thành viên của Hội Đồng được bầu chọn, thì vị có số phiếu cao thứ hai của những người được bầu chọn từ Miền họ thuộc về sẽ đảm nhận vai trò Cố Vấn thế giới.
    §3. Mọi thành viên được bầu chọn của Hội Đồng thế giới thực thi nhiệm vụ của mình trong sáu năm, và thông thường sẽ không được tái bầu chọn cho một nhiệm kỳ sáu năm tiếp theo.
    §4. Những chỉ dẫn của Hội Đồng thế giới có hiệu lực sau khi được Bề Trên Cả phê chuẩn.
    §5. Các cựu Điều Phối Viên thế giới và Uỷ Viên Thế Giới có thể được mời làm việc trong Hội Đồng thế giới, nhưng không có quyền bỏ phiếu.
    Kh. 33. Hội Nghị Thế Giới
    §1. Thỉnh thoảng Hội Nghị thế giới diễn tả tính đại diện cao nhất của Hiệp Hội. Hội nghị quy tụ các Cộng Tác Viên Salêdiêng từ mọi Miền, trong sự hiệp nhất và hiệp thông với cha Bề Trên Cả, theo những thể thức tổ chức đã được xác định, dựa trên những mục đích chuyên biệt của Hội nghị.
    §2. Hội Nghị Thế Giới họp lại chủ yếu là:
  • Phê chuẩn những thay đổi trong Kế Hoạch Đời Sống Tông Đồ;
  • Bàn đến những đề tài có tầm mức quan trọng trên cấp thế giới;
  • Thiết lập những chỉ dẫn làm việc trên những đề tài được đề xuất cho nghị trình trong ngày;
  • Cử hành cách đặc biệt những thời điểm quan trọng trong đời sống và lịch sử của Hiệp Hội và Giáo Hội.
    §3. Những người tham dự Hội nghị thế giới theo chức vụ là:
  • Điều Phối Viên tối cao, Bề Trên Cả của Tu Hội Salêdiêng Don Bosco.
  • Phó Bề Trên Cả, cố vấn về Gia đình Salêdiêng;
  • Mẹ Tổng quyền của Con Đức Mẹ Phù hộ các Giáo hữu (hay Uỷ viên của mẹ)
  • Những Cố vấn thế giới:
    Điều Phối Viên thế giới
    Uỷ Viên SDB thế giới;
    Uỷ Viên FMA thế giới;
    Những Cố vấn thế giới của SEM
  • Những Cố vấn thế giới tiêu biểu cho 11 miền.
  • Các Điều Phối Viên của Tỉnh
  • Một đại biểu hoặc hơn thêm vào Điều Phối Viên của Tỉnh dòng cho mỗi tỉnh, theo những tiêu chuẩn được đặt trước trong Nội quy của Hội nghị.
  • Một Uỷ Viên SDB hay FMA cho mỗi tỉnh. Ta phải ghi nhớ rằng con số của những thành viên tu sĩ bầu chọn không thể vượt qua một phần ba tổng số của những người trong hội nghị có quyền bỏ phiếu.
    §4. Theo đề xuất của Hội Đồng thế giới, Bề Trên Cả có trách nhiệm quyết định đề tài, nơi chốn và những thành viên cho Hội Nghị thế giới thông thường hay ngoại thường, và trao phó việc tổ chức Hội Nghị cho Văn Phòng thường vụ Thế Giới (WES).
    Vị Điều Phối Viên thế giới đảm nhận trách nhiệm để điều phối cụ thể và kỹ thuật của Hội nghị.
    Kh. 34. Hội Đồng Tham Vấn Miền
    §1. Với sự đồng ý của Bề Trên Cả, Hội Đồng thế giới có thể cổ võ sự thiết lập những Hội Đồng tham vấn miền trong những khu vực quốc gia hay địa lý với một số Tỉnh có cùng một ngôn ngữ và văn hóa.
    §2. Hội Đồng Tham Vấn Miền, là thực thể sinh động hóa, nhằm có được sự đồng trách nhiệm hữu hiệu hơn giữa các Hội Đồng Tỉnh và Hội Đồng Thế Giới. Mỗi Hội Đồng Tham Vấn chia sẻ những thách đố tông đồ và đào luyện hầu mưu ích cho toàn Miền.
    §3. Hội Đồng Tham Vấn Miền bao gồm: Cố Vấn thế giới cho Miền, là người chủ tọa Hội Đồng nhân danh Hội Đồng thế giới; các Điều Phối Viên tỉnh; các Uỷ viên SDB và FMA cấp miền. Dựa trên những nhu cầu sinh động, những Cộng Tác Viên Salêdiêng khác cũng có thể tham dự, như được thiết định do “những tiêu chuẩn để sinh động và hoạt động”.
    §4. Uỷ Viên SDB cấp miền được vị SDB miền liên hệ bổ nhiệm; Uỷ viên FMA cấp miền được Mẹ Tổng Quyền theo đề xướng của Hội nghị của những Giám Tỉnh liên hệ trong khu vực địa lý liên hệ.
    §5. Các thủ tục hội họp và tổ chức của Hội Đồng Tham Vấn Miền được xác định trong “Những tiêu chuẩn để sinh động và hoạt động” như được Hội Đồng thế giới thiết lập.
    Kh. 35. Cẩm Nang
    Để làm cho những nguyên lý và điều luật của những Quy chế được uyển chuyển và thích ứng vào những thực tại địa lý khác nhau của Hiệp Hội, cơ quan sinh động và cai quản được dự liệu trước do Quy chế để phát triển đoàn sủng và Hiệp Hội có thể tạo “những Cẩm Nang” vì mục đích được nói đến vốn hòa hiệp và/hay áp dụng những khía cạnh liên quan đến cai quản và sinh động hóa các cơ quan.
    Mọi Cẩm Nang (địa phương và Tỉnh) chịu sự lượng giá của Hội Đồng liên hệ (địa phương/ tỉnh) vốn chấp nhận nó do một đa số tuyệt đối của những người có quyền bỏ phiếu và trình bày nó cho Hội Đồng thế giới để phê chuẩn dứt khoát.
    Cùng một tiến trình đó được áp dụng cho việc phê chuẩn những thay đổi đối với những Cẩm Nang khác nhau.
    Kh. 36. Quản Trị tài sản Hiệp Hội
    Cha Bề Trên Cả cùng với Hội Đồng thế giới quản trị tài sản của Hiệp Hội ở cấp thế giới.
    Ngài là vị thẩm quyền để cho phép các Hội Đồng địa phương và tỉnh thực thi việc quản trị và di nhượng ngoại thường, vốn không đòi hỏi sự can thiệp của Tòa Thánh, lưu ý đến quy định của kh. 39 §3 của Điều Lệ vẫn còn đầy đủ hiệu lực, và hợp với điều được định rõ trong tài liệu ASE.
    Kh. 35. Những quy định cuối cùng
    §1. Các Cộng Tác Viên Salêdiêng buộc phải tôn trọng và thực thi những Quy Chế hiện hành.
    §2. Bất kỳ đề xuất thay đổi nào cần phải:
  • Đệ trình rõ ràng và chi tiết những lý do cho sự thay đổi;
  • Xác định mục tiêu cụ thể của thay đổi ấy;
  • Chỉ ra những nguyên tắc nó diễn tả.
    Tiến trình thay đổi được Hội Đồng thế giới ấn định dưới sự giám sát của cha Bề Trên Cả.
    §3. Các Quy Chế hiện hành có thể được thay đổi theo đề nghị của Bề Trên của Hiệp Hội, của Hội Đồng thế giới hay Hội Đồng tỉnh. Trong bất kỳ trường hợp nào, Bề Trên của Hiệp Hội có trách nhiệm phê chuẩn những sáng kiến thay đổi, và sẽ được công bố đúng lúc.

PHỤ CHƯƠNG

Sau đây là bản Quy luật mà chính Don Bosco viết ra cho các Cộng Tác Viên Salêdiêng.
Chúng tôi quyết định giữ bản văn này theo hình thức nguyên thủy và chung cuộc của nó, với sự phân chia thành chương và đoạn y như ta thấy trong công hàm của Hội Dòng 133 – Cộng Tác Viên, 2(5).
Có một vài lối diễn tả cũ xưa; và Giáo Hội đã thay đổi các luật lệ liên quan đến ơn xá, nhưng ngoài những chi tiết này, Sách Quy luật (Don Bosco gọi là như thế) vẫn còn là thời sự cho ngày hôm nay và ngay cả sau một trăm năm, văn phong vẫn giữ được sự trong sáng và sinh động. Tất cả gia đình Salêdiêng, Tu sĩ và Cộng Tác Viên Salêdiêng phải luôn quay về đây, bởi lẽ, sách Quy luật này diễn tả tuyệt vời suy nghĩ đích thực của Đấng Sáng Lập chúng ta.
Hơn nữa, cuốn sách này còn dùng như một chứng từ về sự trung thành của Những Quy chế của đời sống tông đồ đối với “Kế Hoạch của Don Bosco”, mặc dù chúng được canh tân nhằm đáp ứng những dấu chỉ thời đại và những chỉ dẫn của Công đồng Vatican II, của các Tổng Tu Nghị của những người Salêdiêng Don Bosco, và của Bộ Giáo luật mới.

THÂN GỬI ĐỘC GIẢ
Ngay từ buổi đầu công cuộc Nguyện Xá vào năm 1841, đã có những tu sĩ và giáo dân nhiệt thành và đạo đức đã ra tay trợ giúp, vì có cả một mùa màng phong phú đang chín mọng giữa các thanh thiếu niên gặp nguy hiểm mất đức tin và đạo đức. Những cộng sự viên, hay là những Cộng Tác Viên này đã hiện diện trong suốt lịch sử của chúng tôi, trợ giúp và nâng đỡ những công cuộc Thiên Chúa đã ủy thác cho chúng tôi. Tất cả đều nhiệt thành làm việc và thích hợp với lối sống và tập quán của chúng tôi, nhưng chung chung họ đều yêu cầu có một bản Quy Chế để họ sử dụng như là nền tảng và là mối dây trợ giúp việc duy trì sự thống nhất và tinh thần nổi bật trong các cơ sở của chúng tôi. Chúng tôi hy vọng rằng nguyện vọng này giờ đây được đáp trả qua tập sách nhỏ này. Đây không phải là những quy luật dành cho các Nguyện Xá hay các cơ sở giáo dục (có những quy luật khác), chúng là mối dây nhờ đó những người Công Giáo muốn cùng với anh em Salêdiêng làm việc theo một cách thức thống nhất và bền vững (như thế sẽ duy trì được mục tiêu và thực thi công cuộc theo truyền thống).
Vậy nơi mấy trang sách này, tôi sẽ cống hiến cho quý vị:
1- Thỉnh nguyện thư gửi lên Đức Thánh Cha và bức Tông thư ngài chuẩn ban những ân xá đặc biệt cho các Cộng Tác Viên Salêdiêng.
2- Bản liệt kê các ân xá này.
3- Những Quy Chế dành cho Cộng Tác Viên Salêdiêng.
Như vậy, những ai muốn thực thi bác ái bằng cách làm việc cứu các linh hồn, thì ngoài phần thưởng lớn lao mà thánh Augustinô đã nói: “Animam salvasti, animam tuam praedestinasti – Bạn đã cứu được một linh hồn, như thế bạn đã cứu trước chính linh hồn của mình, ” họ được bảo đảm là sẽ có được một kho báu thiêng liêng to lớn, nhờ sự hưởng nhờ các-ân-xá. Nguyện xin Thiên Chúa, rất giàu ân sủng và phúc lành, tuôn tràn muôn hồng ân trên tất cả những người đang ra sức chinh phục các linh hồn về cho Đấng Cứu Thế, làm điều thiện cho giới trẻ đang gặp nguy hiểm, đào tạo những Kitô hữu tốt cho Giáo Hội và những công dân lương thiện cho xứ sở mình, để một ngày kia tất cả chúng ta đều có thể trở thành những cư dân diễm phúc của Nước Trời. Amen.
CỘNG TÁC VIÊN SALÊDIÊNG: một cách thức thực tiễn đóng góp vào luân lý của dân chúng và thiện ích của xã hội dân sự.
I. Các Kitô hữu hiệp nhất với nhau để làm việc bác ái
Thời nào cũng thế, người ta nghĩ rằng những Kitô hữu tốt lành cần phải hiệp nhất với nhau để nâng đỡ nhau làm tốt và xa tránh điều xấu. Chúng ta có gương sáng về điểm này nơi các giáo hữu của Giáo Hội sơ khai: không nản lòng vì những hiểm nguy họ luôn luôn gặp phải, họ đã chỉ có một trái tim và một linh hồn, họ khuyên nhủ nhau hãy sống đức tin vững vàng, và hãy can trường chiến đấu giữa những cuộc công kích không ngừng mà người ta tung ra để chống lại họ. Chính Chúa chúng ta đã dạy chân lý này khi Ngài nói: “Các lực lượng nhỏ mà kết hiệp lại, sẽ trở nên mạnh, và sợi dây chấp ba lại sẽ khó mà dứt đứt được”. “Vis unita fortior, funiculus triplex difficile rumpitur”(Gv 4:2). Những người thế gian sử dụng phương tiện này để khuyếch trương lợi nhuận vật chất của họ. Vậy con cái ánh sáng kém khôn ngoan hơn con cái tối tăm chăng? Chắc là không. Sống trong thời đại khó khăn này, những Kitô hữu chúng ta phải hiệp nhất trong tinh thần cầu nguyện, bác ái và nhiệt tâm, sử dụng tất cả mọi phương tiện mà tôn giáo cung cấp cho ta. Chúng ta phải cố gắng khử trừ hoặc ít ra làm giảm đi những điều xấu đang đe doạ đời sống luân lý mà không có nó, xã hội dân sự sẽ sụp đổ liền.
II. Tu hội Salêdiêng
Tu hội Salêdiêng này đã được Giáo Hội phê chuẩn cách chung cuộc và có thể là một dây chắc chắn và ổn định để hiệp nhất các Cộng Tác Viên Salêdiêng. Thực thế, mục đích chính của Tu hội là làm việc vì lợi ích của giới trẻ: tương lai tốt hay xấu của xã hội là tuỳ ở giới trẻ này. Tuy nhiên, chúng tôi không có ý nói đây là phương tiện duy nhất để đáp lại nhu cầu lớn lao và phổ quát đó: có cả ngàn phương tiện khác mà chúng tôi nhiệt liệt khuyến khích mọi người tự do sử dụng những phương tiện xem ra có lợi nhất cho mục tiêu này. Chúng tôi chỉ muốn đề nghị thêm một phương tiện nữa: đó là Công cuộc của các Cộng Tác Viên Salêdiêng. Và chúng tôi xin các người Công Giáo tốt lành đang sống giữa thế gian liên kết cố gắng của họ với cố gắng của những thành viên của Tu hội này. Đúng là con số của họ đã gia tăng một cách lớn lao, nhưng vẫn thiếu rất nhiều, chưa đủ để đáp ứng những nơi xin chúng tôi mỗi ngày, không những từ nước Ý, mà còn từ nhiều nước Châu Âu, từ Trung Hoa, Úc Châu, Mỹ Châu, và nhất là từ Achentina. Từ khắp nơi, những đơn xin dồn dập đổ về đây, để xin gửi cho họ những linh mục [và những người Salêdiêng] chăm lo cho giới trẻ đang rơi vào cảnh hiểm nghèo. Người ta nài xin chúng tôi mở những nhà, những trường học, đứng ra lo hoặc ít ra chung tay lo cho các nơi truyền giáo đang rất thiếu những người thợ Phúc Âm. Chính để đáp ứng những nhu cầu lớn lao ấy mà chúng tôi tìm kiếm anh chị em Cộng Tác Viên.
III. Mục đích của các Cộng Tác Viên Salêdiêng
Mục đích chính của các Cộng Tác Viên Salêdiêng là thiện ích thiêng liêng của chính những thành viên qua việc họ ôm ấp một lối sống bao có thể giống với lối sống của các tu sĩ sống trong cộng đoàn. Nhiều người sẵn sàng từ bỏ thế tục để đi tu trong nhà dòng, nhưng họ bị ngăn trở vì nhiều lý do như tuổi tác, sức khoẻ, về hoàn cảnh hoặc thiếu cơ hội và bị ngăn trở. Tuy nhiên, họ có thể trở thành Cộng tác viên và như thế sống như những phần tử của Tu hội [Salêdiêng] ấy, đang khi tiếp tục trong những bận bịu thường nhật và sống ngay trong gia đình họ.
Vì thế, Đức Thánh Cha coi Hiệp Hội này nhưmột loại Dòng Ba xa xưa, với sự khác biệt này. Đang khi các Hội Dòng Ba nhắm đạt tới mức trọn lành bằng sự thực hành các việc đạo đức, thì mục đích chính của chúng tôi là tích cực hoạt động bác ái đối với anh chị em lân cận, cách riêng đối với giới trẻ đang gặp nguy hiểm.
IV. Những cách thức cộng tác
Các Cộng Tác Viên Salêdiêng chia sẻ cùng một mùa màng [tông đồ]với Tuhội thánh Phanxicô Salê mà họ muốn được liên kết.

  1. Cổ võ các tuần cửu nhật, tam nhật, tĩnh tâm, hành hương, dạy giáo lý, đặc biệt tại những nơi thiếu phương tiện luân lý và vật chất.
  2. Các ơn gọi linh mục ngày càng thiếu trầm trọng. Vì thế, những ai gia nhập hãy đặc biệt lo cho các thiếu niên, và cả những người lớn tỏ ra có những đức tính luân lý cần thiết, có khả năng học tập thích hợp và có những dấu chỉ ơn kêu gọi. Họ có thể giúp đỡ các em bằng những lời khuyên nhủ, hướng các emtới các trường học, các nơi nội trú, ở đó, các em được giáo huấn và được hướng tới mục đích này.
  3. Cần phải khẩn thiết lấy việc ấn hành sách báo tốt để chống lại sách báo xấu. Vì thế, các người gia nhập có thể trợ giúp bằng cách phổ biến các cuốn sách tốt, các tập sách nhỏ, các truyền đơn, các ấn phẩm đủ loại, đưa vào trong các gia đình và tất cả những nơi mà chúng ta hy vọng sẽ được tiếp nhận cách khôn ngoan.
  4. Sau cùng, thực thi bác ái đối với các trẻ em gặp nguy hiểm bằng cách tập họp các em lại, dạy cho các em biết các chân lý đức tin, tập cho các em quen tham dự kinh lễ ở nhà thờ, lấy lời tốt lành khuyên bảo các em, dẫn các em tới những nơi có thể dạy giáo lý cho chúng. Những hoạt động này là một cánh đồng khác nữa cho các cộng tác viên Salêdiêng [để thi hành nhiệt tâm]. Những người không thể đích thân lo một việc nào trong các công việc này, có thể làm được qua những người khác, chẳng hạn lôi kéo một người bà con, hoặc một người bạn vào công việc đó. Rồi họ có thể cộng tác bằng cầu nguyện, hay bằng cách giúp đỡ tài chính, nếu cần đến. Những Kitô hữu sơ khai thường mang của cải đến cho các tông đồ, để phân phát giúp đỡ các bà goá và trẻ mồ côi, và cho những mục đích bác ái khác.
    V. Sự tổ chức và việc cai quản Hiệp Hội
  5. Tất cả những ai tròn mười sáu tuổi đều có thể ghi danh là Cộng Tác Viên, miễn là quyết chí tuân giữ các luật lệ của Hiệp Hội.
  6. Một cách khiêm cung, Hiệp Hội trông cậy vào sự bảo trợ và lòng nhân hậu của Đức Thánh Cha, của các Đức Giám Mục và các cha xứ: Hiệp Hội sẽ tuyệt đối phục tùng các ngài trong những gì liên quan đến tôn giáo.
  7. Cha Bề Trên Tu hội Salêdiêng cũng là Bề Trên của Hiệp Hội này.
  8. Cha Giám Đốc của mọi nhà Salêdiêng địa phương được quyền thâu nhận các hội viên: ngài sẽ chuyển mẫu đơn gồm tên gọi, tên thánh và nơi ở của họ về cho Cha Bề Trên, để lưu giữ nơi cuốn sổ chung.
  9. Nơi những thành phố và làng mạc không có nhà Salêdiêng, nếu số Cộng Tác Viên đạt tới mười người, thì Bề Trên sẽ bổ nhiệm một trưởng toán, ưu tiên lựa trong số các giáo sĩ, và nếu không có thì chọn một người có đời sống gương mẫu. Người trưởng toán này sẽ tiếp xúc với Cha Bề Trên, hoặc với Cha Giám đốc của nhà Salêdiêng gần nhất.
  10. Bất cứ Cộng Tác Viên nào cũng đều có thể trình bày với Cha Bề Trên về những sự việc mà mình nghĩ là cần phải xem xét.
  11. Ba tháng một lần, hoặc nhiều hơn nếu cần, một tập san sẽ được ấn hành để tường trình cho các Cộng Tác Viên về những sự việc đã được đề ra, về những sự việc đã làm được, và về những việc dự định. Vào cuối mỗi năm, sẽ có bản thông báo cho các Hội viên về những công việc xem ra có ích lợi nhất, và nếu cần được lo liệu trong năm tới. Cũng sẽ có luôn đó một danh sách các anh chị em Hội viên đã qua đời trong năm qua để mọi người nhớ cầu nguyện cho họ.
  12. Ngày lễ Thánh Phanxicô Salê và ngày lễ Đức Mẹ Phù Hộ, mỗi Cha Giám Đốc và mỗi vị trưởng toán sẽ tập hợp các Cộng Tác Viên của mình, để thúc giục nhau sùng kính các Thánh bổn mạng của mình, kêu cầu sự trợ giúp của các Ngài để bền chí trong các công cuộc tốt lành đã khởi sự theo tinh thần của Hiệp Hội.
    VI. Những nghĩa vụ riêng
  13. Các thành viên của Tu hội Salêdiêng sẽ coi tất cả Cộng Tác Viên là những anh chị em của mình trong Chúa Giêsu Kitô. Họ sẽ dựa đến Cộng tác viên mỗi khi sự tiếp tay của họ có thể làm sáng danh Chúa và mưu ích cho các linh hồn. Về phía mình, mỗi khi cần, các Cộng Tác Viên cũng sẽ tự do chạy đến các thành viên của Tu hội Salêdiêng như vậy.
  14. Tất cả các hội viên sẽ làm hết sức mình để trợ giúp và nâng đỡ các công cuộc của Hiệp Hội, hoặc với tiền tài của mình, hoặc với của dâng cúng mà mình đã nhận được từ những người đầy lòng bác ái.
  15. Các Cộng Tác Viên không phải đóng góp một khoản tiền nào nhất định, nhưng mỗi tháng hoặc mỗi năm một lần, họ sẽ dâng cúng một số tiền tuỳ theo lòng bác ái của họ thôi thúc. Các tiền dâng cúng này sẽ được gửi cho Cha Bề Trên để trợ giúp và phát triển những công cuộc của Hiệp Hội.
  16. Mỗi năm sẽ có ít là hai hội nghị, một vào dịp lễ Đức Mẹ Phù Hộ, và một dịp vào lễ Thánh Phanxicô Salê và mỗi dịp đó sẽ tổ chức một cuộc lạc quyên theo ý đã được nêu ở số 3 trên đây. Khi các thành viên không đủ số người thành một nhóm hay không thể dự hội nghị được, họ sẽ gửi khoản dâng cúng của mình bằng con đường nào dễ nhất và chắc chắn nhất.
    VII. Các ơn ích
  17. Do Sắc lệnh ngày 30 tháng 7 năm 1875, Đức Thánh Cha Piô IX đã mở rộng cho các người cổ võ công cuộc này [các Cộng Tác Viên Salêdiêng] được hưởng tất cả các ân huệ, các ân sủng thiêng liêng và các ân xá đã ban cho các tu sĩ Salêdiêng, ngoại trừ những ơn liên quan đến đời sống cộng đoàn nhà Dòng. Danh sách những ơn ích này đều có sẵn cho từng phần tử.
  18. Những thành viên chia sẻphúc lộc thiêng liêng của tất cả các thánh lễ, các kinh nguyện, các tuần cửu nhật, tam nhật, các việc đạo đức, các việc rao giảng, dạy giáo lý và tất cả các công cuộc bác ái mà các tu sĩ Salêdiêng thực thi trong thừa tác vụ thánh của mình trên khắp thế giới.
  19. Họ cũng được thông phần vào Thánh Lễ và các kinh nguyện hằng ngày nơi Đền Thánh Đức Mẹ Phù Hộ tại Torinô, để cầu cho các ân nhân và gia đình của họ, đặc biệt cho những người đã làm ơn tinh thần hoặc vật chất cho dòng Salêdiêng.
  20. Ngày tiếp sau lễ thánh Phanxicô Salê, tất cả các linh mục Salêdiêng và các Cộng Tác Viên linh mục sẽ cử hành thánh lễ cầu cho các anh chị em đã qua đời. Những ai không là linh mục sẽ cố gắng rước lễ và lần chuỗi theo ý đó.
  21. Khi một anh chị em ngã bệnh, phải báo cho Cha Bề Trên biết để ngài lập tức truyền cầu nguyện đặc biệt cho người đó. Khi mỗi Cộng Tác Viên qua đời cũng vậy.
    VIII. Các việc đạo đức
  22. Không buộc các Cộng Tác Viên phải giữ một việc đạo đức bên ngoài nào, nhưng để cho đời sống của họ có những điểm gần giống với đời sống tu sĩ, thì họ được khuyên giản dị về quần áo, thanh đạm về ăn uống, đơn sơ về đồ đạc trong nhà, nết na trong lời nói, nghiêm chỉnh trong các việc bổn phận: họ sẽ lo cho những người dưới quyền mình được nghỉ ngơi và thánh hoá các ngày lễ cho nghiêm túc.
  23. Họ được khuyên hãy dành ra vài ngày để tĩnh tâm năm. Ngày cuối tháng, hoặc ngày nào tiện cho họ hơn, họ sẽ làm việc dọn mình chết lành, xưng tội và rước lễ như thể lần sau hết.
  24. Tất cả các hội viên sẽ đọc mỗi ngày một Kinh Lạy Cha và một Kinh Kính Mừng kính thánh Phanxicô Salê, cầu nguyện theo ý Đức Giáo Hoàng. Các linh mục và những người đọc kinh Nhật khoá hoặc kinh Nhật Tụng Đức Bà sẽ được miễn đọc kinh này. Đối với họ, chỉ cần thêm ý chỉ này vào việc đọc kinh Nhật Khoá.
  25. Các hội viên sẽ cố gắng lãnh nhận Bí Tích Hoà Giải và Thánh Thể thường xuyên bao có thể.
    GHI CHÚ: Hết sức khuyên nài các Cộng Tác Viên hãy trung thành giữ các luật lệ này, vì nhiều lợi ích mà mỗi người có thể nhận được. Tuy nhiên, để tránh bối rối lương tâm, chúng tôi xin nói ngay rằng sự tuân giữ các luật lệ này không buộc đến mức nếu không giữ thì mắc tội, dù là tội trọng hay tội nhẹ, trừ khi đó là những điều mà các giới răn của Chúa hoặc của Giáo Hội vẫn buộc hoặc đã cấm.
    [Biểu mẫu ghi danh]
    Mọi người gia nhập điền vào biểu mẫu sau, ký tên và gởi cho Bề Trên.
    Tôi, ký tên dưới đây,
    Sống ở_______________________
    Số nhà và tên đường _
    Minh xác rằng tôi đã đọc những quy luật của các Cộng tác viên Salêdiêng. Và với ơn Chúa giúp, tôi hy vọng sẽ trung thành thực thi chúng vì phần ích cho linh hồn tôi.
    Turin, (hay) Tên thành phố/Tỉnh lỵ _
    Ngày: tháng_______năm_
    Tên gọi, Tên họ________
    Chức vụ/ nghề nghiệp ___________
    Chữ ký của Cộng Tác Viên _______
    Turin, 1876, Toà báo Salêdiêng.
    Bản dịch Quy luật nguyên thuỷ ở trên trích từ: Arthur J. Lenti, SDB. Don Bosco: History and Spirit. Vol. VI. (Rome: Libreria Ateneo Salesiano, 2009) 237-244. Print.
    ÂN XÁ
    ĐẠI XÁ
    Sau khi được Tòa Thánh duyệt lại qua Sắc Lệnh ngày 31 tháng 1 năm 1968, các ơn Đại Xá được ban cho Hiệp Hội Cộng tác Viên Salêdiêng vào những ngày:
  26. Gia nhập Hiệp Hội
  27. Lễ Thánh Phanxicô Salê (24/1)
  28. Lễ Thánh Gioan Bosco (31/1)
  29. Lễ Thánh Giuse (19/3)
  30. Lễ Thánh Đaminh Savio (06/5)
  31. Lễ Thánh Maria Domenica Magiarellô (13/5)
  32. Lễ Đức Mẹ Phù Hộ Các Giáo Hữu (24/5)
  33. Lễ Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội (08/12)
    Điều kiện để được lãnh ơn Đại Xá:
    a) Xưng tội, Rước Lễ và cầu nguyện theo ý Đức Thánh Cha.
    b) Lập lại lời Tuyên hứa, ít là cách tư riêng, tuân giữ trung thành Quy Chế.
    N. B.: Nếu những ngày lễ trên đây được cử hành vào ngày khác, các Cộng Tác Viên vẫn có thể nhận được ơn xá hoặc trong ngày phụng vụ hay ngày lễ trọng được cử hành.
    Các Cộng Tác Viên có thể lãnh nhận các ơn Đại Xá ban cho mọi tín hữu khi chu toàn điều kiện thứ nhất ở trên: nghĩa là, không cần tuyên lại lời hứa tuân giữ Quy Chế.
    TIỂU XÁ
    Trong quá khứ, nhiều ơn tiểu xá rõ ràng được ban cho Hiệp Hội Đạo đức đã không được đổi mới; nhưng Cộng Tác Viên cố gắng chiếu được những ân xá được trải rộng cho tất cả các tín hữu. Về điều này ta phải nhớ rằng những tiểu xá không còn xác định rõ ngày tháng hay năm như trong quá khứ. Khi ta nói rằng một hành vi nào đó được gắn liền với ơn xá, điều đó có nghĩa rằng:
    “Người tín hữu có dự thế thích hợp để chu toàn một hành vi gắn liền với ơn tiểu xá sẽ được tha hình phạt xứng hợp qua sự can thiệp của Giáo Hội”, thêm vào sự tha hình phạt tạm thời gắn liền với chính hành vi ấy. ”
    Thêm vào những ơn tiểu xá gắn liền với những thực hành đạo đức, ta phải nhắc đến ba sự nhượng bộ chung liên quan đến những hành vi đạo đức, bác ái và thống hối.
  34. Ơn tiểu xá được ban cho các tín hữu vốn hướng lòng trí lên Thiên Chúa qua một loại cầu nguyện nào đó với sự tin tưởng khiêm cung, đang khi thực thi những bổn phận và chịu mọi khó khăn của đời sống hằng ngày.
  35. Một ơn tiểu xá được ban cho các tín hữu vốn được thúc đẩy bởi tinh thần đức tin và sự thương xót, trao ban chính mình hay những của cải của mình để phục vụ những người thiếu thốn.
  36. Một ơn tiểu xá được ban cho các tín hữu, vốn trong tinh thần sám hối, tự động kiếm chế thúvui vật chất vốn hợp pháp và làm họ vui thích.

MỤC LỤC
Lời giới thiệu 3
ĐIỀU LỆ
Dẫn nhập 11
Chương I:CỘNG TÁC VIÊN SALÊDIÊNG TRONG GIA ĐÌNH SALDIÊNG VÀ TRONG THẾ GIỚI 13
Chương II:DẤN THÂN TÔNG ĐỒ CỦA CỘNG TÁC VIÊN SALÊDIÊNG 19
CHƯƠNG III: TINH THẦN SALÊDIÊNG CỦA CỘNG TÁC VIÊN 26
Chương IV :CỘNG TÁC VIÊN SALÊDIÊNG HIỆP THÔNG VÀ CỘNG TÁC 33
Chương V :TƯ CÁCH THÀNH VIÊN VÀ VIỆC ĐÀO LUYỆN
CỦA CỘNG TÁC VIÊN SALÊDIÊNG 39
Chương VI :TỔ CHỨC HIỆP HỘI 45
Kết Luận 51
QUY CHẾ
Chương I:DẤN THÂN TÔNG ĐỒ
CỦA CỘNG TÁC VIÊN SALÊDIÊNG 54
Chương II:CỘNG TÁC VIÊN SALÊDIÊNG HIỆP THÔNG
VÀ CỘNG TÁC 59
Chương III :TINH THẦN SALÊDIÊNG CỦA CỘNG TÁC VIÊN SALÊDIÊNG 65
Chương IV :TƯ CÁCH THÀNH VIÊN VÀ VIỆC ĐÀO LUYỆN
CỘNG TÁC VIÊN SALÊDIÊNG 67
Chương V :TỔ CHỨC HIỆP HỘI 74
PHỤ CHƯƠNG
Ân Xá 119

https://www.facebook.com/semcoop6/
https://www.asscc-mondiale.org/webSite/
https://sdb.vn/category/ctv-cong-tac-vien/
https://sdb.vn/hanh-trinh-25-nam-cong-tac-vien-saledieng-viet-nam/
https://www.facebook.com/p/CTV-DonBosco-Vi%E1%BB%87t-Nam-100064967160766/