Cuộc đời của Chân Phước Pedro Kasui Kibe:
Năm 1587: Pedro Kasui Kibe sinh ra
Năm 1600: Ông vào Chủng viện Dòng Tên ở Nagasaki.
Năm 1615: Từ Nagasaki, ông đến Manila. Từ Manila, ông đến Ma Cao.
Năm 1616: Từ Ma Cao, ông hướng đến Goa.
Năm 1619: Hành hương đến Jerusalem qua Baghdad và Damascus.
Năm 1620: Đến Rome. Cha Pedro gia nhập Dòng Tên.
Năm 1622: Rời Rome để trở về quê hương, hướng đến Lisbon.
Năm 1623: Khởi hành từ Lisbon.
Năm 1624: Vượt qua Cabo da Boa Esperança (Mũi Hảo Vọng) và đến Goa.
Năm 1625: Đến Manila qua ngã Malacca. Từ Manila, ông đến Ma Cao.
Năm 1626: Đến kinh đô Ayutthaya của Xiêm. Sau đó trở lại Ma Cao.
Năm 1627: Một lần nữa, ông rời Malacca và đến Ayutthaya.
Năm 1629: Rời Ayutthaya, hướng đến Manila.
Năm 1630: Rời Manila, đến đảo Lubang. Từ đảo Lubang, ông khởi hành đến Nhật Bản và đến Bōnozu (Kagoshima).
Năm 1637: Cuộc nổi dậy Shimabara xảy ra.
Năm 1639: Bị bắt tại lãnh thổ Sendai. Bị tra tấn và tử đạo tại Edo (Tokyo).
Lá thư từ linh mục chân phước Pedro Kibe gửi Phụ tá Tổng Hội Dòng Tên từ đảo Lubang (Philippine)
Ngọn gió ân sủng của Thiên Chúa thổi qua, và tôi đã giương buồm lên với niềm tin tưởng vào Ngài. Tôi đã ở lại Malacca khoảng hai năm, cố gắng mọi cách để tìm cơ hội đến Nhật Bản dưới sự dẫn dắt của Chúa, nhưng mọi nỗ lực không như ý muốn.
Tại Nhật Bản, theo lệnh của tướng quân, cả người Nhật lẫn người nước ngoài, những người đã sống ở nước ngoài trong nhiều năm, dù là tín đồ của tôn giáo nào, kể cả người Kitô giáo hay người Phật giáo, đều phải tuyên bố mình thuộc về một trong các phái Phật giáo và phải ký cam kết bằng dấu ấn của mình, nếu không thì tuyệt đối không được phép đi tàu đến Nhật Bản. Vì vậy, tôi đã mất hết hy vọng về mọi điều liên quan đến bản thân mình. Khi tôi đang tìm kiếm cơ hội trở về Ma Cao, thì một con tàu do Thống đốc Manila phái đến đã đến đúng lúc. Nhân cơ hội này, tôi đã đến quần đảo Philippines và từ đó dự định đi Ma Cao. Nhưng Thiên Chúa toàn trí đã có một kế hoạch khác cho tôi. Cùng với sự tham khảo ý kiến của thành viên Dòng Tên Miguel Matsuda và linh mục tục Iyo Jeronimo, chúng tôi đã quyết định mua một con tàu và thuê thuyền trưởng cùng thủy thủ người Nhật. Sau khi chuẩn bị tất cả những gì cần thiết nhờ vào sự bố thí của những người có đức tin mạnh mẽ và sự hỗ trợ từ khu vực của chúng tôi, chúng tôi đã rời Manila vào ngày 2 tháng 3 năm 1630.
Chúng tôi đang ở lại đảo Lubang đã đề cập trước đây, chờ đợi thời tiết thuận lợi cho việc đi biển vào khoảng tháng 6. Cầu mong Thiên Chúa nhân từ nâng đỡ hành trình và kế hoạch của chúng tôi, để mọi điều mong ước được thành tựu. Chúng tôi cầu xin sự giúp đỡ từ trời cao, đặc biệt từ Cha Ignatius và Thánh Phanxicô Xaviê. Nguyện xin Thiên Chúa không bỏ rơi chúng tôi vì những lỗi lầm của chúng tôi, ngay cả khi chúng tôi không xứng đáng là con cái của Ngài trong việc hoàn thành những điều lớn lao như vậy. Nếu ngọn gió ân sủng của Thiên Chúa thổi qua, và với niềm tin tưởng vào Ngài, chúng tôi giương buồm và được dẫn dắt an toàn đến Nhật Bản, tôi sẽ báo cáo chi tiết cho Cha về cuộc hành trình của chúng tôi cũng như tình trạng của Giáo hội tại Nhật Bản. Xin Cha đừng quên cầu nguyện và dâng Thánh Lễ cho tôi trong những dịp đó, tôi tha thiết cầu xin Cha nhờ công nghiệp Chúa Kitô. Xin Cha cũng chuyển lời chào trân trọng của tôi đến Cha Francisco Vaz.
Ngày 7 tháng 5 năm 1630, tại đảo Lubang Người tôi tớ không xứng đáng của Chúa Kitô Pedro Kasui.
………………………………………………………………………………………………………….
Cha Phêrô Kibe cùng 187 Vị tử đạo trên khắp Nhật Bản vào nửa đầu thế kỷ 17, được phong “Chân Phước” tại Nagasaki vào ngày 24 tháng 11 năm 2008.
Lễ nhớ Chân phước Phêrô Kibe và 187 vị tử đạo (01/07)