No I
Khăn liệm Thánh, (Sindone聖骸布Holy Shroud) di phẩm lịch sử
Khăn Liệm Thánh được diễn dịch từ “Sacra Sindone” là hàm ý, tấm khăm hay tấm vải được coi là đã cuốn liệm Chúa Giêsu sau khi được tháo xuống khỏi Thánh Giá. Hiện tấm khăn này đang được bảo quản tại Nhà thờ Chính Tòa Thánh Gioan Baotixita, Torino, Ý Quốc.
Từ ngữ “Sindon”, được 3 thánh sử Matthêu, Máccô và Luca dùng trong nguyên bản gốc của Phúc Âm. Tiếng Ý gọi là “Sindone”, tiếng Anh được dùng qua chữ “Holly Shroud”. Trong Kinh Thánh, từ “Sindon” chỉ được dùng đến có vài lần, trong từ ngữ Hylạp thời cổ đại, từ này được dùng để ám chỉ áo che thân và cánh buồm của chiếc thuyền, từ này có nghĩa là “vải cây lanh” (Linum usitatissimum).
Trên tấm vải dệt sam lụa dài 4.41 mét, rộng 1.13 mét (số đo mới) đang được bảo quản tại Torino, có in hiện rõ hình ảnh phía trước và phía sau của một nhân vật mà trùng khớp với hình tử nạn của Chúa Giêsu trong Phúc Âm. Có in hiện rõ hình máu tươi đỏ từ các vết thương, nguyên cứu khoa học đã chứng minh đó là máu AB của 1 người thật. Đây là di phẩm mà hiện nay được thế giới để ý đến nhiều nhất từ nhiều quan điểm.
Nhưng những ký lục về di phẩm này chỉ có thể truy tìm ngược lại đến giữa thế kỷ 14. Các văn kiện và tác phẩm trước đó có trợ giúp cho chúng ta biết về sự tồn tại, nhưng không có ký lục ngược lại đến thời Chúa Yêsu. Vấn đề quan trọng nhất hiện nay đó là; Hình người in hiện trên tấm vải đó là ai? hoặc Đó có phải là tấm vải liệm Chúa Giêsu chăng?
No II
Khoảng năm 1350, Khăn Liệm Thánh xuất hiện tại Lirey, Nước Pháp
Ký lục đầu tiên ghi về tấm vải được gọi là Khăn Liệm Thánh tại Châu Âu vào khoảng năm 1350, tại một thành phố có tên là Lirey gần Paris, được triển lãm tại Thánh Đường do Lãnh Chúa Geoffroy de Charney thuộc gia tộc Charny xây dựng. Vì vậy có nhiều người hành hương viếng, nhưng Lãnh Chúa không công bố đó là Khăn Liệm của Chúa Giêsu. Do đó, đã gây nên sự đối lập với Đức Giám Mục. Sự đối lập này được rất nhiều tài liệu ghi lại. Trong đó, được để ý đến nhiều nhất đó là Mề-đay kỷ niệm (đường kính 6cm) ngẩu nhiên được vớt lên từ sông Seine của Paris. Tuy phần trên và phần dưới đã bị bể vỡ, nhưng hình người ở mặt trước và mặt sau cùng vị trí chi tiết dệt sam lụa của Khăn Liệm Thánh có ấn rõ con dấu của gia tộc sở hữu.
Đó đúng là khăn liệm hiện tại đang được bảo quản tại Torino. Vấn đề ở đây đó là; làm sao mà có được khăn liệm ấy?
Năm 1204, được triển lãm tại Constantinopli
Năm 1204, kho châu ngọc di phẩm thánh tại Constantinople (hiện tại là Istanbul) bị Đệ Tứ Thập Tự Quân chiếm cướp. Binh sĩ Robert de Clary, người tham gia trận chiến, có ghi tài liệu để lại rằng; “tại thành phố này, vùng Blachernai có tu viện Thánh Mẫu Maria, tấm vải cây lanh (Sydone) liệm Chúa của chúng ta, vào Thứ Sáu mỗi tuần, trông nhìn Ngài đứng thẳng người, hình Ngài được nhìn thấy rất rõ nét. Nhưng sau khi thành phố bị thất thủ, cả người Hy Lạp cùng người Pháp không một ai biết tấm vải ấy đã ở đâu cả.”
“Sydoine” là từ “Sindon” trong Kinh Thánh, “Trông có vẻ như đang đứng” có nghĩa là không phải chỉ có khuôn mặt, nhưng toàn cả thân người. Do đó, có khả năng đó là Tấm Khăn Liệm Thánh đã được trưng bày.
Người đem di phẩm thánh về vẫn còn trong bí ẩn
Năm 1205, một năm sau khi thành phố bị thất thủ, Teodorus Angelus Comnenus, trong văn thư gởi Đức Giáo Hoàng Innocenzio II (Rôma): “Ottho de la Roche đã mang về Athens tấm vải liệm bọc Chúa Giesu Kito của chúng ta khi Ngài qua đời, trước khi được phục sinh”, ông tuyên cáo.
Khi thành phố thất thủ, Otto de la Roche là nhân vật đầu tiên bước vào nhà thờ Brakel, nơi có trương treo tấm khăn vải cây lanh. Nhờ vào công tích ấy mà ông đã được thăng chức công tước của Athens ngay năm sau đó, ông là người được truyền đồn là đã đem Khăn Liệm Thánh về đất Pháp. Tuy các ký lục không được minh bạch, nhưng ông là người có tên trong gia phả trong dòng tộc của người vợ thứ hai của ông Geoffroy, người có quyền sở hữu Khăn Liệm Thánh.
N III
Hai cảnh vẽ Prey của năm 1193~1195
Thêm một bằng chứng nữa là Khăn Liệm Thánh đã có ở Constantinopoli, đó là「cảnh vẽ Prey」trong kho thư viện Buda-Pest của Hungary, được giới thiệu vào năm 1968. Đây là cảnh được vẽ tại Constantinopoli vào năm 1193~1195, khi Nữ Hoàng được vua Hungary cưới về làm vợ, thì bà ta đã mang theo. Ở trang 27 có hai cảnh vẽ này. Cảnh trên là ông Nicodemo xối dầu trên tử thi Chúa Giêsu được đặt trên khăn liệm. Cảnh dưới là Thiên Thần chỉ báo tấm vải cây lanh cho các phụ nữ vừa bước chân đến mộ Chúa. Thường thì cảnh được vẽ với một tấm vải quấn che ngang lưng, nhưng cảnh này thì trần truồng. Cảnh mỹ thuật mà trước nay chưa từng có. Tay phải đặt bên trên, tay trái được đặt bên dưới, hai tay đan lại với ngón tay cái được dấu bên trong, được đặt che giấu vị trí kín, nên chỉ thấy được 4 ngón. Trên trán có vết thương. Giống y hệt như Khăn Liệm Thánh.
Cảnh bên dưới là Thiên Thần đưa tay chỉ tấm khăn liệm. Tấm vải nhỏ là tấm「Sudarion」(khăn lau chùi mồ hôi) cuốn bao đầu Chúa Giêsu được Phúc Âm Thánh Gioan 20, 7 ghi lại, tấm lớn được coi là tấm vải cây lanh quấn liệm Chúa Giêsu. Tấm vải được gấp thành 2, mặt ngoài có hình dạng dệt sam lụa. Mặt trong có nhiều hình Thánh Giá xung quanh thân thể Chúa Giêsu. Nhìn kỹ thì sẽ thấy có nhiều lỗ nhỏ. Vị trí trùng khớp với 4 vị trí vết cháy hình chữ L trên Khăn Liệm Thánh mà chưa rõ ở vào thời đại nào. Nghĩa là người vẽ tấm tranh này là người đã nhìn thấy Khăn Liệm Thánh. Đó là sự kiện 10 năm trước thời Thập Tự Quân Đệ Tứ. Nếu suy so với chứng ngôn của binh sỉ Robert de Clary thì chúng ta không thể phủ nhận việc Khăn Liệm Thánh đã có tại Constantinopoli trong thời điểm ấy.
Từ thế kỷ 13 có truyền thống khóc sầu bi
Có một điều làm cho chúng ta càng thêm chú ý quan tâm đó là; sau đó bắt đầu có truyền thống vẽ diễn tả những tác phẩm chôn liệm về「khóc sầu bi」cùng dạng cấu hình như bản vẽ này. Cùng thời điểm của bản sao vẽ này, nhiều tranh cảnh và hình tượng khắc ở nhiều nơi như Nerezi thuộc bán đảo Balkans, Kurbinovo, cũng như ảnh bức tường Aqnileia của miền Bắc Nước Ý vào từ đầu thế kỹ thứ 13, bước vào thế kỹ thứ 14, ở Ý, Pháp và Đức, nhiều tranh ảnh đã được công nhận.
Thí dụ như vào khoảng năm 1320, tranh ảnh khắc rất ấn tượng của tác giả Rigino di Enrico vùng Caprino gần Verona, tất cả các tranh ảnh này xuất hiện sau thời điểm Khăn Liệm Thánh tại Pháp, sau thời Thập Tự Quân Đệ 4, có thể nói đó là bằng chứng có ảnh hưởng từ Khăn Liệm Thánh.
No IV
Vào năm 1453, Khăn Liệm Thánh thuộc quyền sở hữu của dòng tộc Savoia
Năm 1453, người cháu cuối cùng Marguerite của dòng tộc Charney đã tặng Khăn Liệm Thánh cho Vua Ludovico thuộc dòng tộc Savoia. Khăn Liệm Thánh đã trở thành báu vật của dòng tộc Savoia trong suốt thời gian 530 năm, lịch sử ấy đã được ghi chép lại thật rõ rang.
Năm 1506, Đức Giáo Hoàng Julius II đã phê chuẩn bản văn nghi thức phụng vụ của Thánh lễ Khăn Liệm Thánh và cũng cho phép cử hành Thánh lễ Misa. Từ năm ấy trở đi, Khăn Liệm Thánh được bảo quản tại nhà nguyện Chambery, thủ phủ của dòng tộc Savoia. Cũng nơi này, hàng năm vào ngày 4 tháng 5 Khăm Liệm Thánh được trưng bày công khai để mọi người đến viếng ngắm.
Ngày 4 tháng 12 năm 1532, Nhà Nguyện ấy bị hỏa hoạn, một phần của mặt nắp thùng kim loại bảo quản Khăn Liệm Thánh bị nóng chảy, vài giọt lửa chảy của kim loại đã thủng xuyên qua 48 lớp gấp của Khăn Liệm Thánh.
Từ ngày 2 tháng 5 đến ngày 15 tháng 5 năm 1534, nữ tu dòng Clara đã khâu may lại tấm khăn, may vá lấp lại các lỗ thủng và lót bằng một mảnh vải để tăng độ chắc chắn cho toàn bộ Khăn Liệm Thánh.
Năm 1578, Khăn Liệm Thánh được chuyển dời sang Torino
Năm 1578, Vua Emanuele Filiberto dời thủ phủ sang Torino. Thêm vào đó, Đức Giám Mục của Milano là Thánh Carlo Borromeo khấn sẽ hành hương đến địa điểm của Tấm vải liệm vì thành phố đã được giải thoát khỏi bệnh dịch, Ngài cũng đã chuyển Tấm Khăn Liệm Thánh đến Torino để rút ngắn hành trình hành hương.
Năm 1694, Khăn Liệm Thánh được bảo quản trong một ngôi nhà nguyện mới nơi cung điện.
Từ ngày 25 đến ngày 28 năm 1898 Hình đầu tiên được chụp do nhà nhiếp ảnh Pia Secondo, ông ta đã phát hiện ra được là hình người ở mặt trước của Khăn Liệm Thánh là hình âm (Phim). Đây là một phát hiện bắt đầu cho các bước nghiên cứu kiểm định khoa học. Cho đến thời điểm này thì đã có khoảng 150 lần công khai chiêm ngắm.
Từ ngày 4 đến ngày 24 tháng 5 năm 1931 là lần đầu tiên Khăn Liệm Thánh được triển lãm để kính viếng một cách công khai đầu tiên của thế kỷ 20. Tháng 7 cùng năm ấy, lần đầu tiên được giới thiệu đến Nhật. Những bức ảnh sắc nét của Enrie châm ngòi cho nghiên cứu khoa học ngày nay.
No V
Từ năm 1983, Khăn Liệm Thánh thuộc quyền sở hữu của Đức Giáo Hoàng
Kể từ ngày 26 tháng 8 năm 1978 trở đi, sau lễ kỷ niệm 400 năm di dời đến Khăn Liệm về Turin, 44 nhà nghiên cứu tiến hành kiểm định nghiên cứu khoa học trong 125 giờ.
Năm 1983, Vua Umberto II, vua cuối cùng của gia tộc Savoia dâng tặng Khăn Liệm Thánh đến Giáo triều Roma.
Năm 1988, cho cắt lấy một tấm mẫu của khăn liệm để thực hiện việc đo kiểm niên đại qua phương pháp kiểm định Carbon 14 (Carbon-14 là một đồng vị phóng xạ được sử dụng để xác định niên đại của vật liệu hữu cơ). Kết qủa được công bố là khăn liệm thuộc vào năm 1260 đến năm 1390. Từ thời điểm này, có rất nhiều ghi vấn đối với kết qủa trên.
Ngày 11 đến ngày12 tháng 4 năm 1997, nhà nguyện bị toàn cháy trong khi tu sửa. Nhưng Khăn Liệm Thánh thoát nạn.
Các địa điểm công khai chiêm ngắm Khăn Liệm Thánh gần Torino:
Ngày 18 tháng 4 năm 1998 đến ngày 14 tháng 6, công khai viếng ngắm kỷ niệm 100 năm cho phép chụp hình.
Ngày 12 tháng 8 năm 2000 đến ngày 22 tháng 10, được bảo quản tại Nhà Thờ Chánh Tòa sau lần công khai viếng ngắm của Đại Năm Thánh 2.000.
Từ tháng 6 đến tháng 7 năm 2000, tu sửa hồi phục lại theo trạng thái sau cuộc hỏa hoạn của năm 1532. Thực hiện việc nguyên cứu kiểm định chính xác, chụp hình kỹ thuật số của mặt trước và mặt sau.
Năm 2008, chụp hình toàn diện tấm khăn liệm với kỹ thuật độ phân giải cao.
Ngày 12 tháng 4 năm 2010 đến ngày 23 tháng 5, công khai viếng ngắm và Đức Giáo Hoàng Benedict 16 đến viếng, hành hương.
Ngày 19 tháng 4 năm 2015 đến ngày 24 tháng 6, triển lãm và viếng ngắm với thời gian 67 ngày nhân dịp kỷ niệm 100 năm sinh nhật của Thánh Don Bosco.
No VI
Nghiên Cứu Khoa Học về hình người trên Khăn Liệm
Nghiên cứu y học về tấm Khăn Liệm Thánh
Vào cuối thế kỷ 20, cho đến thời điểm sau Đệ Nhị Thế Chiến, Khăn Liệm Thánh được nghiên cứu ở nhiều dạng thức, nhưng hầu hết là chỉ dựa trên hình chụp trắng đen của năm 1931. Nhất là các vết thương và nguyên nhân chết của hình người trên Khăn Liệm Thánh được nghiên cứu trên lập trường của Giải Phẩu Học và Bệnh Lý Học, ngay cả việc kiểm chứng Pháp Y Học, cho chúng ta biết rằng; hình người được in thấm trên tấm khăn là người đã bị án thập tự giá. Việc nghiên cứu Pioneer này gồm có các thành phần như; y sĩ ngoại khoa Piere người Pháp, nhà nghiên cứu Rudolph Hynek thuộc hội viên Czechoslovakia của Đại Học Blaha, nhà nghiên cứu Johnvani Đại Học Milano người Ý vv.
Vết thương mũ gai (phía mặt)
Các kết quả phân tích ấy vẫn được đánh giá cao trong hiện tại, và đã được tái xác nhận lại qua những lần nghiên cứu kiểm định sau thời điểm ấy.
Vào cuối thế kỷ thứ 20, nhìn nhận ra được sự giới hạn của việc nghiên cứu trên hình chụp, đồng thời nhìn thấy ra được sự cần thiết của việc trực tiếp tiếp xúc với Tấm Khăn, do đó, Giáo Hội đã cho phép nghiên cứu kiểm định trực tiếp. Lần thứ nhất là vào năm 1963, lần thứ hai là vào năm 1978, bắt đầu cuộc nghiên cứu kiểm định qui mô.
Vết thương trên trán
Bóng thu được khi chụp tấm vải liệm
No VII
Hình người trên tấm Khăn Liệm Thánh bị đội mũ gai
Trong thời cổ đại, những dạng người đội mũ bằng bằng cành cây lá đó là; cô dâu chú rễ, cầu thủ thể thao, nhất là Vua Chúa, và những con thú được đem đi hiến tế. Hình người trên Khăn Liệm Thánh cũng đội mũ cây lá. Nhìn vào các vết thương thì chúng ta sẽ nhận ra rằng là người này đội một chiếc mũ được đan bện bằng một loại cây có gai. Nhiều vết thương bên sau đầu cùng những vết thương trên trán là bằng chứng của mũ gai. Phía sau đầu thì có nhiều mỡ, hòa lẫn với máu, để lại các vết đậm lợt. Những vết thương ở phần trán, theo giải phẩu học thì được chia ra làm hai loại. Vết máu「số 3 ngược」ở giữa trán là máu tỉnh mạch chảy ra từ tỉnh mạch trán. Vết máu lợt là máu động mạch. Trong các ký lục lịch sử, dạng tra tấn tàn nhẫn như thế này là chỉ có Chúa Yêsu mà thôi.
Hình người trên Khăn Liệm Thánh bị đánh đòn bằng roi
Vào thời cổ đại Rôma, án tử hình Thập Tự Giá thường được kèm theo với án đánh đòn. Mục đích là kiềm chế sự phản khán của người đang bị án. Hình người trên Khăn Liệm Thánh, có trên 100 vết roi đánh từ vai xuống tới bắp chân. Vết thương khoảng 2cm, và là vết roi đôi. Với mắt thường thì khó nhìn thấy được, vết roi có nhiều vết máu bám xung quanh. Ở đầu roi, có những vết lằn tròn như những hạt chì nhỏ, dạng roi đặc thù của người Rôma. Dạng roi có hai sợi dây roi dính liền với cây roi. Lính thi hành đánh roi luôn tránh đánh vào vị trí của tim cùng các vị trí nguy hiểm sinh mệnh, hầu không để cho người bị án không phải chết trước khi đến địa điểm tử hình. Vì lính thi hành án nhận được mệnh lệnh là phải thi hành án một cách tàn nhẫn, sao cho họ phải chết một cách đau khổ nhất bằng án tử hình Thập Tự Giá. Lính thi hành án đánh roi không phải là người Giuđa, vì trong Cựu Ước, sách Thứ Luật chương 25 đoạn 3, có luật ghi lại là không được đánh trên 40 roi.
No VIII
Hình người trên tấm Khăn Liệm Thánh đã vác thập tự giá
Thời Đế Quốc Rôma, ngoại trừ kẻ phản bội, thì không được xử án tử hình Thập Tự Giá cho người dân Rôma. Vì đó là một dạng tử hình nhục nhã nhất. Do đó, người bị án cực kỳ tàn nhẫn ấy chắc hẳn không phải là người Rôma. Thanh dọc của Thập Tự Giá đã được chôn cố định trước ở địa điểm tử hình, người bị tử hình chỉ vác thanh ngang được cột trói vào vai và tay. Thực tế thì phía sau ở vị trí vai có vết trầy lớn. Vết trầy ấy không làm biến dạng vết roi, cho nên chúng ta có thể đoán được là người này có bận áo trong lúc vác thanh ngang. Nếu có nhiều người bị xử án trong cùng một lúc, thì họ sẽ được trói lại với nhau và đi theo thành hàng. Vết thương ở cổ chân là vết bị trói dây. Nếu một người bị té, thì sẽ kéo trì người khác. Theo nghiên cứu khoa học thì chân và đầu gối có đính đất. Nghĩa là người ấy đã đi chân đất và đã bị té nhiều lần. Đó là loại đất Aragonite, có nhiều ở vùng Jerusalem.
No IX
Hình người trên Khăn Liệm Thánh bị đinh đóng xuyên qua tay và chân
Khi người bị kết án được điệu đến nơi hành quyết, họ bị lột quần áo, đóng đinh 2 tay vào thanh ngang và bị treo lên thanh dọc. Nghĩa là người chịu án bị đóng đinh ở tay và chân. Nhưng vết thương ở nơi tay không nằm trong lòng bàn tay, mà là ở giữa khớp xương cổ tay. Vì trọng lượng cơ thể sẽ trì kéo rách nếu đóng ở trong lòng bàn tay. Theo thử nghiệm, nếu đóng xuyên qua cổ tay thì dây thần kinh chính bị tê liệt, ngón tay “cái” sẽ bẻ cong vào lòng bàn tay. Do đó, hình trên Khăn Liệm Thánh không nhìn thấy ngón tay “cái”. Chân thì để chồng lên với nhau và được đóng bằng 1 cây đinh. Bởi thế, chúng ta sẽ nhìn thấy có một chân ngắn.
Trọng lượng cơ thể toàn thân của người bị đóng đinh dồn hết vào tay, và máu tuôn chảy dọc theo cánh tay. Từ vết thương tay trái của hình người trên Khăn Liệm Thánh, máu tuôn chảy ra 2 đường, đó là nguyên nhân người bị án cố đạp chân vận động đưa người lên xuống để hít thở, do đó, vị trí tay có thay đổi. Khi hết sức cử động, thì sự chết đã gần kề. Trên Khăn Liệm Thánh biểu hiện sự cử động ấy rất sống động.
No X
Hình người trong Khăn Liệm Thánh đã vát Thập Tự Giá
Thời Đế Quốc Rôma, người công dân Roma không bị án tử treo và đóng đinh trên thập giá, ngoài trừ tội phản quốc. Vì đó là một dạng tử hình nhục nhả và ghe tởm nhất. Do đó, người bị án cực kỳ tàn nhẫn ấy chắc hẳn không phải là người Rôma.
Thanh dọc của Thập Tự Giá đã được chôn cố định trước ở địa điểm tử hình, người bị tử hình chỉ vát thanh ngang và bị trói buột vào vai và hai tay. Trên tấm khan liệm còn in lại vết trầy lớn phía sau của vị trí vai. Vết trầy ấy không làm biến dạng vết roi, cho nên chúng ta có thể đoán được là người này có bận áo trong lúc vác thanh ngang. Nếu có nhiều người bị xử án trong cùng một lúc, thì họ sẽ được trói lại với nhau và đi theo thành hàng. Vết thương ở cổ chân là vết bị trói dây. Nếu một người ngã, thì sẽ kéo trì người khác té theo. Theo nghiên cứu khoa học thì chân và đầu gối có đính đất. Có nghĩa là người ấy đã đi chân đất và đã bị té nhiều lần. Đó là loại đất Aragonite, có nhiều ở vùng Jerusalem.
No XI
Hình người trên Khăn Liệm Thánh đã chết trên Thập Tự Giá
Ý kiến của các bác sĩ không đồng nhất về nguyên nhân người đã chết trên Thập Tự Giá. Có bác sĩ chủ trương rằng là vì sự đau khổ trên thân thể và trong tâm hồn vượt quá sức chịu đựng, cho nên trái tim đã bị vỡ. Có khả năng là bị uốn ván. Nguyên nhân chết là do bị ngẹt thở, trạng thái thiếu nước, nghẹt thở v.v. nghĩa là do nhiều nguyên nhân khác nhau phát sinh trong cùng một lúc thì hợp lý hơn. Trên Khăn Liệm Thánh, có vết máu của người bị án trước khi chết (vết máu tay, chân, máu mũ gai, v.v.), đồng thời cũng có vết huyết thanh và máu cục sau khi đã chết. Thêm vào đó, tử thi ở trạng thái tê cứng, cở thể ở trạng thái đã chết trên Thập Tự Giá. Đầu gục về phía trước, gân, nhất là gân ngực phồng lên. Đây là dấu chỉ nói lên rằng là đã chết trên Thập Tự Giá.
Hình người trên Khăn Liệm Thánh bị giáo đâm vào cạnh lương long
Nhìn vào cạnh lương long của người bị án, ở giữa hai xương số 5 và số 6 của cạnh sường bên phải, có vết mũi giáo nhọn hình bầu tròn ngang 4.5cm dọc 1.5cm đâm thủng vào. Nỗi hiện rõ vết máu tuôn trào. May mắn thay là vị trí ấy đã tránh thoát được khỏi cuộc hỏa hoạn. Trong vết máu có huyết thanh và máu cục, rõ ràng là máu sau khi đã chết. Eo lưng và sau lưng có hiện rõ đường máu. Đó là đường vết máu khi tử thi được đặt nằm nghiêng trên tấm Khăn Liệm, là đường huyết thanh và máu cục được tuôn chảy ra từ cạnh lương long sau khi đã chết.
No XII
Người trên Khăn Liệm Thánh, không bị gẫy xương.
Trường hợp án đóng đinh trên thập tự giá, là một hình thức tàn ác là đánh gãy chân tù nhân để đẩy nhanh cái chết. Tiếng La-tinh gọi là “crurifragium”. Cách này, người đó sẽ không thể thở được và nhanh chóng chết vì ngạt thở. Năm 1968, hài cốt của Jehohanan, tù nhân bị án đóng đinh trên thập giá duy nhất được biết đến, được khai quật từ một nghĩa trang cũ ở quận Givat HaMivtar của Jerusalem. Vài vị trí xương của cả hai chân đùi bị gẫy. Cây đinh vẫn còn đâm ở gót chân. Nội dung này được công bố phát biểu vào năm 1970.
Nhưng người trên Khăn Liệm Thánh thì không bị đánh gẫy xương chân. (vì đã sớm chết)
Yohannan, người chịu án bị gẫy xương đùi
Người trong Khăn Liệm Thánh, được quấn liệm bằng một loại vải lanh quí giá.
Theo những ghi chép còn lại, người bị án tử hình thập tự giá, không được chôn cất đàng hoàng. Bị vất ngoài đồng để nó thối rữa và trở thành mồi cho dã thú. Hoặc bị ném vào hố mồ mã tập thể nào đó. Nhưng, đối với người Do Thái coi trọng việc mai táng, nếu người gia đình thỉnh cầu, thì luật Rôma cho phép trao tử thi ấy cho người nhà. Nhưng, trường hợp kẻ tội phạm thì rất hiếm có.
Người trong Khăn Liệm Thánh, được quấn chôn bằng một loại vải dệt sam lụa cao cấp của vải cây lanh. Đồng thời có nhiều vết máu thắm dính trên khăn liệm, cho nên tử thi này chắc hẳng được chôn cất ở trạng thái không được tẩy rửa sạch. “Theo tập quán chôn cất của người Do Thái”, có qui định là trường hợp bị tử hình và tử thi có bám dính nhiều máu thì cũng phải chôn cất cả máu đang bám dính.
Thế nhưng phải có một lý do nào đó cho nên người bị án tử hình thập tự giá này được coi trọng. Dựa theo khám nghiệm khoa học của Pier Luigi Baima Bollone, từ tấm vải cây lanh có phản ứng chất hương và mộc dược. Ngay trong những vết nước lem thấm trên khăn liệm cũng có hiện lên sự tồn tại của hương và mộc dược. Vì nếu chỉ là nước lả thì sẽ không có những dạng lem thắm như thế. Đây cũng là bằng chứng cho thấy thi thể đã được tôn trọng và chăm sóc.
Xương chân người trong Khăn Liệm Thánh không bị gãy